Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động thúc đẩy tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện

(Chinhphu.vn) - Chính phủ ban hành Nghị quyết số 214/NQ-CP ngày 23/7/2025 kế hoạch hành động của Chính phủ về thúc đẩy tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện.

Mục tiêu của Kế hoạch này nhằm xây dựng và triển khai đồng bộ kiến trúc hệ thống, nền tảng dùng chung trong toàn bộ hệ thống chính trị, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm đồng bộ, thống nhất toàn hệ thống chính trị, thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Kế hoạch cũng đặt ra mục tiêu phấn đấu 100% các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành được rà soát, đánh giá, tiếp tục xây dựng, bổ sung và chuẩn hóa toàn diện theo tiêu chuẩn chung, bảo đảm bao quát tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, khả năng liên thông, kết nối, chia sẻ, tích hợp; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành và cải cách thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu, đáp ứng yêu cầu thiết thực của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, tập trung xây dựng, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các Trung tâm điều hành thông minh phục vụ chỉ đạo điều hành các cấp. 

Kế hoạch nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đối với các bộ, ngành, địa phương. Cụ thể:

Hoàn thiện hành lang pháp lý về chuyển đổi số, dữ liệu trong năm 2025

Về hoàn thiện thể chế, Kế hoạch giao Bộ Công an chủ trì tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định về Kiến trúc dữ liệu quốc gia tổng thể, Khung quản trị, quản lý dữ liệu và Từ điển dữ liệu dùng chung phù hợp với yêu cầu phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, hoàn thành trong tháng 8/2025.

Đồng thời chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan, đơn vị liên quan rà soát, nghiên cứu xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định về kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị theo trình tự, thủ tục rút gọn, áp dụng quy định khoản 2 Điều 32 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, hoàn thành trong tháng 8/2025.

Các bộ, ngành hoàn thiện hành lang pháp lý về chuyển đổi số, dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và định danh điện tử thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, ngành, hoàn thành trong năm 2025. Khẩn trương ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn để kết nối, chia sẻ các dữ liệu theo lĩnh vực quản lý; hoàn thiện các quy định về quản trị dữ liệu, chuẩn hóa dữ liệu đầu vào, cơ chế chia sẻ, kết nối liên thông dữ liệu thuộc phạm vi quản lý với Trung tâm dữ liệu quốc gia theo hướng dẫn của Bộ Công an, hoàn thành trong tháng 8/2025.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật chuyên ngành để công nhận đầy đủ giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, hồ sơ điện tử và kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử để thay thế yêu cầu nộp bản giấy trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, hoàn thành trong tháng 9/2025.

Ưu tiên hoàn thiện 11 cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ cải cách thủ tục hành chính và quyền lợi của người dân và doanh nghiệp

Về dữ liệu, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, ngành, địa phương (trừ Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ) rà soát toàn diện, đánh giá hiện trạng việc triển khai, xây dựng, khai thác, sử dụng các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành. 

Các bộ, ngành, địa phương chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các tập đoàn, doanh nghiệp đồng hành xây dựng và ban hành Chiến lược dữ liệu, Chiến lược chuyển đổi số của bộ, ngành, địa phương hoàn thành trong tháng 9/2025. Trên cơ sở đó, xây dựng, cập nhật, hoàn thiện, chuẩn hóa hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành trong phạm vi quản lý, bảo đảm tuân thủ Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số, Kiến trúc dữ liệu quốc gia tổng thể, Khung quản trị, quản lý dữ liệu quốc gia, Từ điển dữ liệu dùng chung, hoàn thành trong năm 2025.

Các bộ, ngành, địa phương triển khai số hóa theo hướng dẫn của Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ đối với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, chuẩn hóa, đồng bộ dữ liệu về Trung tâm dữ liệu quốc gia theo lộ trình xây dựng các cơ sở dữ liệu. Trong đó, ưu tiên triển khai hoàn thiện 11 cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành trọng yếu, trực tiếp phục vụ cải cách thủ tục hành chính, quyền lợi, nghĩa vụ thiết thực của người dân và doanh nghiệp, bảo đảm tập trung nguồn lực triển khai, hoàn thành trong năm 2025 (gồm: CSDLQG về đất đai, CSDLQG về tài chính, CSDL ngành Giáo dục và đào tạo, CSDL Hộ tịch, CSDL ngành Y tế, CSDL Hàng hóa, CSDLQG về hoạt động xây dựng, CSDLQG về Kiểm soát tài sản, thu nhập, CSDLQG về Xử lý vi phạm hành chính, CSDL ngành Nông nghiệp, CSDLQG về An sinh xã hội).

Các địa phương rà soát, hoàn thiện, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu của địa phương trên các nền tảng số, hệ thống thông tin dùng chung, thống nhất của Trung ương theo hướng dẫn; ưu tiên số hóa, hoàn thiện các bộ dữ liệu phục vụ trực tiếp công tác cải cách thủ tục hành chính, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, phù hợp với kiến trúc dữ liệu của các bộ, ngành, hoàn thành theo lộ trình xây dựng, triển khai của từng cơ sở dữ liệu.

Hoàn thiện nền tảng số dùng chung trong năm 2025

Về nền tảng và hạ tầng, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan xây dựng Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số, trong đó bảo đảm tính kết nối, đồng bộ, liên thông giữa các khối cơ quan (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, hoàn thành trong tháng 8/2025.

Đồng thời báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ phương án nâng cấp, mở rộng Mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước theo định hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, mô hình quản lý tập trung, thống nhất toàn quốc, bảo đảm kết nối trực tiếp, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, đáp ứng yêu cầu về bảo mật, an toàn thông tin, liên thông và đồng bộ, hoàn thành trong tháng 8/2025. 

Các bộ, ngành chủ trì xây dựng và cung cấp các nền tảng số quốc gia dùng chung, hệ thống thông tin quy mô quốc gia, bảo đảm phù hợp với Khung kiến trúc tổng thế quốc gia số. Các nền tảng này được triển khai thống nhất trong phạm vi toàn quốc nhằm phục vụ hiệu quả công tác chuyển đổi số quốc gia; đồng thời, bảo đảm khả năng kết nối, tích hợp, đồng bộ dữ liệu với các nền tảng số quốc gia dùng chung, hệ thống thông tin quy mô quốc gia khác, hoàn thành trong năm 2025.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai, sử dụng thống nhất các nền tảng số quốc gia dùng chung, hệ thống thông tin quy mô quốc gia do các bộ, ngành cung cấp; hoàn thành tạo lập, cập nhật, chuẩn hóa, làm giàu và kết nối chia sẻ, đồng bộ dữ liệu vào các nền tảng số quốc gia dùng chung, hệ thống thông tin quy mô quốc gia trong tháng 12/2025.

Các bộ, ngành, địa phương rà soát, đánh giá, nâng cấp, phát triển các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, nền tảng số dùng chung bảo đảm kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, phục vụ công tác quản lý nhà nước và chỉ đạo, điều hành, hoàn thành trong năm 2025.

Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về dữ liệu

Chính phủ thống nhất chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về dữ liệu do Thủ tướng Chính phủ là Trưởng Ban; Phó trưởng ban là: Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Công an (Phó Trưởng ban Thường trực); Thứ trưởng Bộ Công an.

Ban Chỉ đạo quốc gia về dữ liệu là tổ chức phối hợp liên ngành, thực hiện chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát thực hiện các chủ trương, chiến lược, cơ chế chính sách về dữ liệu, hoạt động xây dựng, phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; tích hợp, đồng bộ, lưu trữ, chia sẻ, phân tích, khai thác, điều phối dữ liệu tại Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Trưởng Ban chỉ đạo về dữ liệu tại địa phương. 

Ban Chỉ đạo trực tiếp chỉ đạo về các nội dung: Xây dựng chiến lược về dữ liệu, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành, địa phương thực hiện các chủ trương, chiến lược, cơ chế chính sách về dữ liệu, hoạt động xây dựng, khai thác, phát triển, bảo vệ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; tích hợp, đồng bộ, lưu trữ, chia sẻ, phân tích, khai thác, điều phối dữ liệu trong cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia; hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật về dữ liệu; hợp tác, phát triển, bảo vệ, quản trị, xử lý, sử dụng tài nguyên dữ liệu.

Tuyết Thư

Tệp đính kèm:

Nghiquyet214.pdf

Xem nhiều nhất

Nghị quyết số 57-NQ/TW và vai trò thúc đẩy đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Chuyển đổi số 18 giờ trước

Phát triển khoa học và công nghệ là xu thế tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của nhân loại, là yêu cầu không thể thiếu để bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển đất nước, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là nghị quyết quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các yếu tố cốt lõi, quyết định sự phát triển bền vững và cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. Những yếu tố này không chỉ là động lực mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, trở thành một quốc gia giàu mạnh, hùng cường. Nghị quyết nhấn mạnh: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yếu tố quyết định sự phát triển vượt bậc của các quốc gia; đây là cơ hội tốt nhất để Việt Nam xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh và vững bước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(1) . Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 57- NQ/TW đóng vai trò như kim chỉ nam trong việc định hướng các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp thiết trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với tầm nhìn chiến lược, nghị quyết không chỉ giải quyết những thách thức trước mắt mà còn định hình lộ trình dài hạn để xây dựng nền tảng phát triển khoa học và công nghệ bền vững. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức, nghị quyết hướng tới việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy các ngành công nghệ tiên tiến và xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và ứng dụng công nghệ số làm động lực phát triển. Nghị quyết không chỉ là một giải pháp chiến lược mà còn là sự cam kết mạnh mẽ của Đảng trong việc đưa dân tộc Việt Nam tiến xa hơn, khẳng định vị thế của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình. Nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí, quyết tâm hành động của các chủ thể trong phát triển khoa học, công nghệ Nghị quyết số 57-NQ/TW được Đảng ta ban hành trong bối cảnh đất nước chuẩn bị tổng kết 40 năm đổi mới (1986 - 2026), chuẩn bị mọi nguồn lực, động lực để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình, khẳng định vị trí, vai trò, tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế. Nội dung cơ bản của Nghị quyết số 57-NQ/TW làm rõ các quan điểm chỉ đạo, chủ trương, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Xác định rõ đây là “một đột phá”, là “động lực” để phát triển toàn diện xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước bứt phá, phát triển vượt bậc.Từ góc độ nhận thức, vai trò của Nghị quyết số 57-NQ/TW được thể hiện trên hai khía cạnh: Một là, góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ. Các chủ thể đó là cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nhân, doanh nghiệp cùng các tầng lớp nhân dân. Nhận thức đúng là điều kiện, tiền đề tiên quyết cho tổ chức thực hiện hiệu quả. Nếu hiểu không đúng nghị quyết hoặc hiểu qua loa, đại khái thì khó có thể tổ chức thực hiện tốt, hiệu quả. Mức độ thẩm thấu, thâm nhập của Nghị quyết số 57-NQ/TW vào các chủ thể nhận thức quyết định khả năng đưa nghị quyết vào cuộc sống và tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tế. Hai là, nếu tất cả các chủ thể tham gia vào phát triển khoa học, công nghệ đều thẩm thấu, nhận thức sâu sắc tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW sẽ tạo được cơ sở về mặt nhận thức, qua đó thống nhất ý chí, quyết tâm hành động của các chủ thể. Bởi lẽ, ý chí và quyết tâm hành động được xây dựng trên nền tảng nhận thức. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ nội dung cơ bản của nghị quyết là cơ sở để hình thành ý chí, quyết tâm. Mặt khác, ý chí, quyết tâm trở thành động lực tinh thần thôi thúc các chủ thể tham gia vào hiện thực hóa các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ. Chẳng hạn, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định, đến năm 2030: “Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp”(2) Để hiện thực hóa mục tiêu trên, các chủ thể có liên quan cần hiểu được mục tiêu, hiểu đúng nội hàm của mục tiêu, trên cơ sở đó xây dựng những kế hoạch, chương trình, giải pháp phù hợp với địa phương, đơn vị trên cơ sở chiến lược tổng thể quốc gia. Chỉ có như vậy, mục tiêu đề ra của nghị quyết mới có thể thành hiện thực. Để phát huy vai trò nâng cao nhận thức và thống nhất ý chí, quyết tâm hành động trong phát triển khoa học, công nghệ của Nghị quyết số 57-NQ/TW, trước hết cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt đến các chủ thể, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp trong hệ thống chính trị, trong doanh nghiệp. Cần phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, thông tấn, báo chí trong việc phổ biến nội dung, tinh thần, mục tiêu cơ bản và các nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết đến các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Tập trung quán triệt, nâng cao nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu, nhất là ở các cơ quan thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ; chú ý đến các doanh nghiệp, doanh nhân, nhà khoa học và đội ngũ làm việc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, ý chí, quyết tâm hành động, Nghị quyết số 57-NQ/TW giữ vai trò tập hợp lực lượng và xác định chủ thể cơ bản trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát triển khoa học, công nghệ là nhiệm vụ quan trọng và thực hiện nhiệm vụ này cần có sự tham gia của các chủ thể, như cán bộ, đảng viên, doanh nhân và các tầng lớp nhân dân. Nhận thức đúng, đầy đủ về nội dung của nghị quyết là cơ sở huy động, tập hợp các chủ thể tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ. Giá trị thực tiễn, sức mạnh của Nghị quyết số 57-NQ/TW chỉ có thể được thực hiện khi nó thâm nhập vào các chủ thể, tác động vào nhận thức, niềm tin, lý tưởng của các chủ thể và chuyển hóa chúng thành hành động trong thực tế. Đề cập đến vai trò của nghị quyết trong việc tập hợp lực lượng phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định: “Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”(3) .Thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định, đến năm 2030, “tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng”; đến năm 2045, “khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao”. Theo đó, việc phát triển khoa học, công nghệ được Đảng chủ trương đổi mới một cách toàn diện. Tính toàn diện thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề nhằm tạo ra sức mạnh tổng thể về khoa học và công nghệ cho sự phát triển của tất cả các ngành, lĩnh vực. C. Mác từng dự báo, tri thức khoa học phổ biến sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó thâm nhập, thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất như: người lao động, công cụ lao động, phương tiện lao động, đối tượng lao động. Đổi mới toàn diện chiến lược phát triển khoa học, công nghệ theo tinh thần Nghị quyết số 57- NQ/TW tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trên hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề. Sự phát triển nhanh, vượt bậc của lực lượng sản xuất là điều kiện vật chất để hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo tiền đề về kinh tế - vật chất nhằm điều chỉnh các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới toàn diện trong lĩnh vực khoa học, công nghệ gắn liền với tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm. Tính trọng tâm, trọng điểm trong chiến lược phát triển khoa học, công nghệ được Đảng chỉ rõ trên hai khía cạnh: Trước hết, cần tập trung hoàn thiện thể chế, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng kết cấu hạ tầng và hướng đến làm chủ các công nghệ chiến lược. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định: “Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước”(4). Đồng thời với đó là tập trung, ưu tiên các ngành, lĩnh vực then chốt, góp phần từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia làm chủ về khoa học, công nghệ để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.Các lĩnh vực then chốt có thể kể đến như: công nghệ chiến lược; đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu cơ bản; thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới… Để hiện thực hóa các lĩnh vực then chốt, Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu ưu tiên nguồn lực quốc gia vào các lĩnh vực cần thiết; phát huy sức mạnh trí tuệ con người Việt Nam; nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; từng bước tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế. Tư duy, quan niệm của Đảng về thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo nhằm thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững. Đó là quá trình phát triển toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và tập trung vào các lĩnh vực then chốt là tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển xã hội hài hòa, trên cơ sở bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khoa học, công nghệ có tác dụng thúc đẩy phát triển bền vững, giúp tăng trưởng, phát triển kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; tạo điều kiện thực hiện tốt các chính sách xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển, ứng dụng công nghệ trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định đúng đắn cách tiếp cận trong phát triển lĩnh vực khoa học, công nghệ, chỉ ra các các lĩnh vực then chốt cần đầu tư, tập trung. Đồng thời huy động, sử dụng các nguồn lực một cách có trọng tâm, trọng điểm, đúng với xu thế phát triển chung của nhân loại, xu hướng phát triển của dân tộc. Việc tập trung hoàn thiện thể chế, nhân lực, hạ tầng chiến lược sẽ tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi, tiến bộ; tháo gỡ những điểm nghẽn cho quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Việc ưu tiên phát triển các lĩnh vực then chốt, nguồn lực cơ bản tạo ra khả năng khai thác tối đa, hiệu quả các nguồn lực trong phát triển khoa học và công nghệ. Trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW tạo ra một xung lực mới, động lực cho phát triển đất nước, tạo thế và lực để Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển, vươn mình. Xác định, tháo gỡ các điểm nghẽn của quá trình phát triển khoa học, công nghệ hiện nay Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn tới. Các nhiệm vụ, giải pháp tập trung vào tháo gỡ, cởi trói những điểm nghẽn về nhận thức, thể chế, hạ tầng, nhân lực, phát triển lĩnh vực mũi nhọn của khoa học và công nghệ. Về nhận thức, Nghị quyết số 57-NQ/TW chú trọng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về quán triệt, thực hiện nghị quyết; nêu cao trách nhiệm người đứng đầu, tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Từng bước “xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển” như: Tư tưởng bảo thủ, trì trệ; tư tưởng thờ ơ, bàng quan, chung chung; tư tưởng ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm; quan niệm “không quản được thì cấm”… Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; triển khai sâu rộng phong trào "học tập số", kiến thức số trong cán bộ, công chức và nhân dân; thực hiện tốt, đa dạng các hình thức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp thời các chủ thể có phát minh, sáng kiến có giá trị trong “nâng cao hiệu quả công tác, hiệu suất công việc, dù là nhỏ nhất”.Về thể chế, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế là một trong ba đột phá chiến lược (từ Đại hội XI, năm 2011) và tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế được xem như là tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn” trong phát triển. Tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế được Nghị quyết số 57-NQ/TW đề cập và tập trung chỉ đạo thực hiện. Đảng xác định khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học và công nghệ, về đầu tư, về ngân sách, có cách tiếp cận mở và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học… nhằm cởi trói về mặt pháp lý trong thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, tiến hành cải cách hoạt động quản lý hành chính nhà nước về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các biện pháp, như: Cải cách cơ chế quản lý tài chính, giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với các chủ thể trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan; hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số; thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ; thu hút, sử dụng, phân bổ có hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ… Đối với các chủ thể là doanh nghiệp, Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu phải có cơ chế, chính sách khơi dậy tinh thần, khát vọng khởi nghiệp, phát triển, đổi mới, sáng tạo. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh; khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển hạ tầng, công nghệ chiến lược, nhằm hình thành các doanh nghiệp lớn, dẫn dắt quá trình chuyển đổi số quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc tế. Nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thực hiện những nhiệm vụ trên. Cơ chế, chính sách cần tập trung vào cơ chế ưu đãi (đất đai, tín dụng, thuế, dịch vụ công…), hỗ trợ doanh nghiệp trong đầu tư nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp tái đầu tư hạ tầng, đầu tư nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy chuyển giao khoa học và công nghệ thông qua vai trò của Nhà nước… Về hạ tầng cho khoa học, công nghệ, phát triển hạ tầng, trong đó có hạ tầng số, là một trong ba đột phá chiến lược được Đảng đề cập từ Đại hội XI (năm 2011). Phát triển hạ tầng cho khoa học, công nghệ là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 57-NQ/TW chỉ rõ, cần ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược, thành lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược. Ban hành các chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trên các lĩnh vực, như: Khai thác không gian (ngầm, biển, vũ trụ...); phát triển năng lượng mới, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo hướng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; phát triển hạ tầng viễn thông, internet, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo, phát triển ngành công nghiệp IoT và xây dựng một số cụm công nghiệp IoT di động; xây dựng trung tâm dữ liệu, lưu trữ quốc gia... Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp trong nước và một số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển khoa học - công nghệ. Tăng cường các cơ chế hợp tác công tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.Về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, cùng với đột phá về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một đột phá chiến lược trong quá trình phát triển đất nước hiện nay và trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng ta đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội XI (năm 2011). Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng, hàng đầu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tháo gỡ điểm nghẽn trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tranh thủ, tận dụng, phát huy tối đa vai trò của nhân tố con người trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát huy vai trò của khoa học, công nghệ trong giai đoạn hiện nay không thể không tập trung xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định cần phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nghị quyết yêu cầu tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, cụ thể: Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng, học phí thu hút sinh viên giỏi trên các lĩnh vực, các chuyên gia nước ngoài về Việt Nam làm việc, sinh sống; xây dựng, kết nối và phát triển hệ thống chuyên gia, nhà khoa học trong nước; phát triển đội ngũ nhà khoa học đủ năng lực, trình độ tiếp cận với chuẩn quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cần xây dựng một số trung tâm đào tạo chuyên sâu về phát triển khoa học, công nghệ, xây dựng nền tảng giáo dục, đào tạo hiện đại, hội nhập quốc tế và phát triển các ngành khoa học cơ bản, công nghệ chíp bán dẫn, kỹ thuật và công nghệ then chốt. Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một đột phá, là nguồn sức mạnh quan trọng để đất nước phát triển nhanh, bền vững, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nghị quyết số 57-NQ/TW ra đời nhằm phát huy tối đa vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong thúc đẩy đất nước phát triển hiện nay. Nghị quyết góp phần nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí, hành động của các chủ thể trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ; thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tháo gỡ những điểm nghẽn trong phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay. Trần Nhật Minh - TS. Phùng Thị An Na - PGS. TS. Võ Văn Dũng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trường Đại học Khánh Hòa Nguồn: tapchicongsan.vn ----------------------------- (1), (2), (3), (4) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.