HỘI NGHỊ QUÁN TRIỆT VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

HỘI NGHỊ QUÁN TRIỆT VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊThực hiện Kế hoạch số 127-KH/BTGDVTW ngày 12/9/2025 của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương về tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị.Các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ phường, Uỷ viên Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ phường; Trưởng, phó MTTQ và các đoàn thể; Trưởng phó phòng, trung tâm thuộc UBND phường; toàn thể cán bộ, đảng viên của cơ quan đảng uỷ, Chính quyền phường ; Bí thư chi bộ, tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố, Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non; Trưởng, phó Trạm Y tế phường Thành Nam đã tham dự hội nghị trực tuyến quán triệt và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị tại Hội trường UBND phường Thành Nam vào ngày 16/9/2025 (thứ ba).Hội nghị đã quán triệt và triển khai các Nghị quyết số 59-NQ/TW; Nghị quyết số 70-NQ/TW ; Nghị quyết số 71-NQ/TW; Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị đến toàn thể các đồng chí tham dự Hội nghị.    

PHƯỜNG THÀNH NAM: TỔ CHỨC THÀNH CÔNG KỲ HỌP THỨ HAI HĐND PHƯỜNG THÀNH NAM

Chiều ngày 29/8/2025 HĐND phường Thành Nam khoá I, nhiệm kỳ 2025-2030 tổ chức Kỳ họp thứ hai Giải quyết công việc phát sinh, đột xuất. Kỳ họp đã thông qua các Nghị quyết:(1) Nghị quyết ban hành Quy chế làm việc của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình khóa I, nhiệm kỳ 2021- 2026.(2) Nghị quyết về việc chuyển đổi thôn (xóm) thành tổ dân phố thuộc phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(3) Nghị quyết về việc phân bổ biên chế cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính, số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, giao chỉ tiêu hợp đồng lao động theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP.(4) Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh phường Thành Nam 6 tháng cuối năm 2025.(5) Nghị quyết kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách địa phương phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(6) Nghị quyết kế hoạch đầu tư công năm 2025 vốn ngân sách địa phương phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(7) Nghị quyết về việc quyết định dự toán thu, chi ngân sách và phương án phân bổ ngân sách nhà nước năm 2025 phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.Kỳ họp diễn ra đúng vào dịp cả nước sôi nổi chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Trong không khí tự hào và tri ân các thế hệ đi trước, HĐND phường Thành Nam khẳng định quyết tâm hành động vì mục tiêu “suy nghĩ và hành động với trách nhiệm cao nhất trong kỷ nguyên mới với một không gian phát triển mới”, tạo bước chuyển mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường Thành Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. 

Công khai tiến độ của tỉnh Ninh Bình

Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ của nhân dân và việc vận dụng trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới

TCCS - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc phát huy trí tuệ của nhân dân và luôn đề ra chỉ dẫn, căn dặn, định hướng để các thế hệ cán bộ, đảng viên khơi nguồn, bồi đắp, nuôi dưỡng và phát huy trí tuệ của nhân dân. Trong bối cảnh mới, việc vận dụng quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ của nhân dân có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là nền tảng vững chắc để đưa đất nước phát triển bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ của nhân dânTừ quá trình nghiên cứu, tiếp thu sâu sắc, để vận dụng thấu đáo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và dựa trên hệ thống kiến thức đồ sộ của nhân loại, kinh nghiệm đúc rút trong thực tiễn hoạt động cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định nguyên tắc dựa vào dân, khoan thư sức dân, tập hợp sức mạnh, trí tuệ của nhân dân. Người chỉ rõ sức mạnh lớn nhất của một dân tộc nằm ở sự tổng hợp và phát huy trí tuệ của toàn dân, rằng “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”(1); chỉ khi “Dân có giàu thì nước mới mạnh”(2) và “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(3),... Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:Thứ nhất, trí tuệ của nhân dân là nguồn lực vô tận, quý báu nhất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn lực vật chất và trí tuệ có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau và đều quan trọng, góp phần làm nên sự thành bại của cách mạng; tuy nhiên, nguồn lực vật chất luôn mang tính hữu hạn, còn khả năng sáng tạo là vô tận nếu biết phát huy, sử dụng hợp lý. Theo Người, con người, nhân dân là lực lượng có sức mạnh to lớn, là chủ thể quý giá nhất, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4). Việc đặt nhân dân trong sự so sánh với cái vô cực, bao la của đất trời cho thấy nhân dân luôn có vị trí lớn lao trong tư tưởng của Người, rằng chỉ khi có sự tôn trọng, khích lệ đóng góp của nhân dân thì mới có thể xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh, hưng thịnh.Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán việc xác định và xây dựng lực lượng làm cách mạng là nhân dân. Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, mà là nhân tố then chốt thúc đẩy cách mạng đi đến thành công cuối cùng. Người chỉ rõ: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”(5); phải lấy dân làm gốc, bởi “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(6). Nhân dân chính là lực lượng có tầm vóc quyết định, làm nên thắng lợi vẻ vang của Tổ quốc, từ các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chống thực dân, đế quốc xâm lược cho đến công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.Thứ hai, trí tuệ của nhân dân vừa là trí tuệ của con người cụ thể từ trong lao động, sản xuất, sinh hoạt, chiến đấu, vừa là trí tuệ của cộng đồng, tập thể nên luôn có tính thực tế, chứa đựng cách thức giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng mà hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quần chúng rất thông minh, mưu trí, sáng tạo, giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng “mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(7). Người chỉ rõ: “Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực”(8); “có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người”(9).Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải tâm huyết, dành thời gian lắng nghe, cân nhắc thấu đáo ý kiến, đề xuất và khuyến khích nhân dân tham gia sâu vào quá trình ra quyết định để tạo ra chính sách phù hợp với nhu cầu của quần chúng cũng như tạo sự đồng lòng và tinh thần đoàn kết rộng rãi trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng.... Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(10). Do đó, phải siêng năng gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại, thường xuyên với quần chúng, lắng nghe, thấu hiểu nhân dân, biết cách chắt lọc điều hữu ích, hữu dụng từ nhân dân, bởi lẽ “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”(11). Đây là chỉ dẫn sâu sắc trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc coi trọng trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, học hỏi từ nhân dân; Người thường xuyên nhắc nhở, phê bình một số cán bộ có biểu hiện tự cao, tự đại, xem thường dân chúng, rằng “Có người thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng”(12).Thứ tư, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, phải luôn tin tưởng quần chúng, đi đúng đường lối dựa vào nhân dân, rằng trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân là vô cùng, vô tận(13). Trong những năm đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng, Người đã viết nhiều tác phẩm, như “Về việc tiếp chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”; “Nhân tài và kiến quốc”, “Tìm người tài đức”,... để kêu gọi người tài, tìm kiếm tài lực, phát huy trí tuệ trong nhân dân. Theo Người, việc đãi trọng kẻ sĩ, chiêu mộ, quy tụ nhân tài từ trong nhân dân luôn gắn liền với khoa học dùng người, có cách thức, việc làm thiết thực để phát huy tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của dân tộc. Đặc biệt, cán bộ phải có trách nhiệm quan tâm tới đời sống nhân dân để họ có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trước khi đi xa, điều khiến Người quan tâm đặc biệt nhất vẫn là “công việc đối với con người”, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(14).Ngoài ra, trong quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định đội ngũ trí thức đóng vai trò tiên phong, nòng cốt của cách mạng, đồng thời chủ trương tăng cường tuyển chọn, đào tạo trí thức xuất thân từ công nhân và nông dân. Từ thực tiễn, Người chỉ rõ phải “giúp đỡ anh em trí thức cũ tiến bộ, cải tạo tư tưởng, đồng thời đào tạo ra trí thức mới từ lớp công nhân, nông dân”(15). Điều đó có nghĩa, đội ngũ trí thức phải thực sự gần gũi, gắn bó mật thiết tầng lớp công - nông, biết trọng lao động, học tập tinh thần, nghị lực và sáng kiến của công nhân, nông dân, mặt khác, cần có phương hướng và kế hoạch nhằm “nâng cao trình độ công nông về văn hóa lý luận”(16).Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ luôn đề cao trí tuệ của nhân dân, mà còn chỉ rõ, phải “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”(17); phải phát huy mọi nguồn lực vốn có, đặc biệt là trí tuệ, sức sáng tạo trong nhân dân nhằm mục tiêu cao nhất chính là phục vụ nhân dân. Theo đó, phải biết quý trọng và đặt nguồn lực trí tuệ của nhân dân vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng. Hơn nữa, công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của toàn dân, trước hết “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(18); tất cả thắng lợi của dân tộc ta không phải là công lao riêng của Đảng ta, đó là công lao chung của toàn đồng bào trong cả nước, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào(19).Thứ năm, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải từ nhân dân mà ra, là kết quả phản ánh nhu cầu, lợi ích căn bản của nhân dân; là sự kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, của dân tộc; ngược lại, mọi tầng lớp nhân dân đều có quyền và có nghĩa vụ xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cao tinh thần, trách nhiệm của nhân dân, rằng “khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình”(20).Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý, cần có tinh thần học hỏi và bàn bạc, giải thích với dân chúng về mọi việc, nhưng “tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng”(21), dân chúng nói gì cũng làm theo, mà phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, vừa tránh “sợ sai”, “sợ khuyết điểm”; có tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi mọi yếu tố ngoại lai; tuyệt đối tránh tư duy cá nhân, thái độ kiêng kỵ, vừa tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò “cầm lái” của mình. Người phân tích, tư tưởng bảo thủ, duy ý chí, không chịu đổi mới là sợi dây cột chân cột tay người ta, kìm hãm sự tiến bộ, phát triển nên phải tháo bỏ nó đi; muốn cán bộ công tác giỏi, muốn sự nghiệp đổi mới tiến lên, gặt hái được nhiều thành tựu năm sau to hơn năm trước thì nhất định phải dám nghĩ, dám làm, có gan phụ trách; bởi “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng” không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”(22) và “Vị thế công bộc” của người lãnh đạo chính là ở ý chí kiên định và dám làm, dám chịu trách nhiệm.Vận dụng chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nayHiện nay, sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước và xã hội, đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định đối với nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở ngày càng hiệu quả hơn. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” tiếp tục được hoàn thiện, cụ thể hóa, đi sâu vào đời sống. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai nhiều nhiệm vụ nhằm vận động nhân dân tham gia đóng góp, cống hiến tích cực vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước cũng như thực hiện nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật; không ngừng đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng, chính đốn Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước(23). Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(24). Có thể khẳng định, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân hiện vẫn còn vẹn nguyên giá trị, khi xã hội càng phát triển, chúng ta càng thấm thía hơn lời chỉ dẫn quý báu của Người.Tuy nhiên, bên cạnh kết những quả đáng khích lệ, nhiệm vụ thu hút, phát huy trí tuệ của nhân dân có nơi, có lúc chưa kịp thời, thiếu tính đổi mới, hiệu quả chưa cao và chưa sát với thực tiễn, khi mà “công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân... Công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(25). Mặt khác, một số vấn đề phức tạp cũng phát sinh, nhưng chưa được quan tâm đúng mức để đề ra biện pháp xử lý dứt điểm; một số tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, tâm tư, kịp thời giải quyết đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân; việc thực hiện dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật,... Theo đó, để thực hiện hiệu quả chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay cần quan tâm làm tốt một số vấn đề sau:Thứ nhất, nghiêm túc quán triệt, thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân dân; đẩy mạnh quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở, tiếp tục mở rộng dân chủ trực tiếp, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đi vào cuộc sống ở cơ sở trong bối cảnh mới(26). Lý luận lẫn thực tiễn đều cho thấy, dù ở giai đoạn, thời kỳ nào của đất nước, yếu tố trí tuệ của nhân dân cũng là nguồn lực vô tận, tác động mạnh mẽ đối với sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên khoáng sản ngày càng khan hiếm, thậm chí đứng trước nguy cơ cạn kiệt, trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Nhất là trước thời điểm đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng và Nhà nước càng phải phát huy cao trí tuệ của nhân dân, coi đây là cội nguồn sức mạnh của đất nước; luôn ý thức rằng, chủ trương phù hợp, khoa học chỉ thành công khi thực sự được nhân dân ủng hộ, tán thành, nên phải tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, từ đó đề ra chính sách khơi dậy và phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của cá nhân, tập thể.Thứ hai, Đảng ta nhận định: “Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới”(27); theo đó, trí tuệ của nhân dân phải được ghi nhận và lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội bằng hoạt động biểu dương kịp thời và hình thức khen thưởng xứng đáng. Các cấp, các ngành phải quan tâm thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, chính xác trong công tác tuyên dương, khen thưởng cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội, đất nước. Tạo nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ niềm tự hào để nhân dân nỗ lực hăng say, tích cực phát huy năng lực của bản thân, lan tỏa giá trị mạnh mẽ trong cộng đồng để khuyến khích, phát huy trí tuệ, sức sáng tạo vào công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước.Thứ ba, tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về quan tâm chăm lo mọi tầng lớp trong xã hội, hướng vào giá trị nhân văn cao đẹp, phát huy nhân tố con người, tạo điều kiện sinh sống, học tập, lao động và cống hiến hết mình cho đất nước, cho Tổ quốc; thực hiện tốt chính sách về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm, an sinh xã hội để phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tập trung phát triển lĩnh vực khoa học - công nghệ, ưu tiên công tác chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài, nuôi dưỡng, bồi đắp nguồn trí tuệ Việt Nam ngày càng lớn mạnh, trọng dụng nhân tài, sử dụng nhân lực chất lượng cao khoa học, hợp lý, hiệu quả. Đây chính là sức mạnh nội sinh thúc đẩy và quyết định kinh tế - xã hội, nước ta phát triển nhanh và bền vững. Đổi mới, nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu mới, luôn ý thức rằng “đổi mới giáo dục trở thành xu thế toàn cầu và Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó”(28).Thứ tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tích cực, chủ động, hăng hái tham gia vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước, đóng góp trí tuệ nhằm mang lại giá trị kinh tế - xã hội thiết thực trên các lĩnh vực. Thời gian qua, rất nhiều nông dân, công nhân, thợ điện, nhân viên lao công,... trở thành tấm gương điển hình tiên tiến trong cộng đồng xã hội khi nghiên cứu chế tạo được nhiều loại máy móc, thiết bị, cải tiến kỹ thuật, sáng tạo trong hoạt động sản xuất, công tác, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm,... mang lại giá trị thiết thực, lợi ích kinh tế to lớn. Tuy nhiên, thủ tục liên quan đến sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, công nhận bằng sáng chế,... còn rườm rà, ảnh hưởng đến tâm huyết, sức sáng tạo của từng cá nhân; do đó, cần nghiên cứu, ban hành hướng dẫn kịp thời các thủ tục đăng ký bản quyền nhanh chóng, thuận lợi nhất cho tác giả, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tác giả.Thứ năm, biết lắng nghe, thương yêu, có trách nhiệm với người dân. Người cán bộ lãnh đạo cần thường xuyên lắng nghe ý kiến của cộng đồng. Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên về vai trò của quần chúng nhân dân; nghiên cứu, tổ chức hình thức, cơ chế phù hợp để người dân tham gia đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để “ý Đảng” hợp với “lòng Dân”. Cần “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(29). Người đứng đầu đơn vị, tổ chức cần tạo môi trường làm việc linh hoạt, thân thiện, thật sự tôn trọng ý kiến đổi mới sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động./.------------------(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 280(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 316(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 297(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 247(6), (7), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502, 335, 284 - 285, 285, 333(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 432(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335(13) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 283(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 56, 57(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232(19) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 672(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 75(21), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 338, 320(23) Xem: Nguyễn Hữu Dũng: “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 985, tháng 3-2022,tr. 32(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 173(25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 91(26) Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7-1-2016, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (năm 2022); Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”,...(27) Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(28) Xem: GS. TS. Tô Lâm: “Phát huy truyền thống hiếu học, quý trọng hiền tài của dân tộc; sự tâm huyết, yêu nghề các nhà giáo, cùng sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, toàn ngành giáo dục quyết tâm thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo”, Tạp chí Cộng sản, số 1.051 (tháng 12-2024), tr. 10(29) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 167PGS, TS NGUYỄN THỊ THU HÒA - NGUYỄN THỊ HẢI YẾNTrường Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai

Quy định về mức học phí từ năm học 2025-2026

Nghị định số 238/2025/NĐ-CP có hiệu lực ngày 03/9/2025 thay thế Nghị định số 81/2021/NĐ-CP và Nghị định số 97/2023/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó quy định về khung học phí cho các cấp học phổ thông và đại học từ năm học 2025 - 2026 trở đi. Cụ thể, Điều 8 Nghị định 238/2025/NĐ-CP quy định học phí đối với giáo dục mầm non, phổ thông như sau: Khung học phí là căn cứ để xác định mức hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông tại cơ sở giáo dục dân lập, tư thục và mức ngân sách nhà nước cấp bù cơ sở giáo dục công lập khi thực hiện chính sách miễn học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông. Khung học phí từ năm học 2025 - 2026 trở đi đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên như sau: Đối với năm học 2025 - 2026 (mức sàn - mức trần): Đơn vị: Nghìn đồng/người học/thángNăm học 2025-2026Mầm nonTiểu họcTrung học cơ sởTrung học phổ thôngTừ 50 đến 540Từ 50 đến 540Từ 50 đến 650Từ 100 đến 650 Từ năm học 2026 - 2027, học phí mầm non, phổ thông tăng mỗi năm không quá 7,5% Từ năm học 2026- 2027 đến năm học 2035 - 2036, mức trần học phí được điều chỉnh theo tỷ lệ phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm nhưng không quá 7,5%/năm;Từ năm học 2036 - 2037 trở đi, mức trần học phí được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương nhưng tối đa không vượt quá tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng tại thời điểm xác định mức học phí so với cùng kỳ năm trước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố. Mức trần của khung học phí đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập tự bảo đảm chi thường xuyên: tối đa bằng 2 lần mức trần học phí quy định theo bảng trên. Mức trần của khung học phí đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí quy định theo bảng trên. Trường hợp học trực tuyến (học online), Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định cụ thể mức thu học phí đối với cơ sở giáo dục công lập theo phân cấp quản lý trên cơ sở chi phí phát sinh thực tế hợp lý, tối đa bằng mức học phí của cơ sở giáo dục đã được ban hành. Căn cứ chính sách phát triển kinh tế- xã hội, khả năng cân đối của ngân sách, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định khung học phí hoặc mức học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập (gồm cả cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông do các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu thành lập theo quy định) trên cơ sở định mức kinh tế-kỹ thuật hoặc định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành, bảo đảm mức thu học phí tương xứng với chất lượng dịch vụ giáo dục; đồng thời phải bảo đảm thực hiện các mục tiêu giáo dục bắt buộc theo quy định của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành.Căn cứ khung học phí quy định nêu trên, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức học phí đối với cơ sở giáo dục công lập và mức hỗ trợ học phí đối với trẻ em, học sinh dân lập, tư thục nhưng không vượt mức thu học phí của cơ sở giáo dục dân lập, tư thục. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định việc sắp xếp, phân loại các vùng trên địa bàn để quyết định mức học phí, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông trong cơ sở giáo dục trên địa bàn quản lý. Học phí đối với giáo dục đại học   Điều 10 Nghị định 238/2025/NĐ-CP quy định học phí đối với giáo dục đại học, trong đó, mức trần học phí đối với cơ sở giáo dục đại học công lập chưa tự đảm bảo chi thường xuyên từ năm học 2025 - 2026 trở đi như sau: Từ năm học 2027 - 2028 trở đi, mức trần học phí được điều chỉnh phù hợp với khả năng chi trả của người dân, điều kiện kinh tế-xã hội nhưng tối đa không vượt quá tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng tại thời điểm xác định mức học phí so với cùng kỳ năm trước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố. Đối với cơ sở giáo dục đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, mức học phí được xác định tối đa bằng 2 lần mức trần học phí nêu trên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học. Trường hợp cơ sở giáo dục đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, mức học phí được xác định tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí nêu trên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học. Đối với chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại học công lập đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định hoặc đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc tương đương, cơ sở giáo dục đại học căn cứ định mức kinh tế - kỹ thuật hoặc định mức chi phí của từng ngành, nghề đào tạo do cơ sở giáo dục ban hành để tự quyết định mức thu học phí; thực hiện công khai với người học, xã hội. Mức trần học phí đối với đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của các cơ sở giáo dục đại học công lập được xác định bằng mức trần học phí đào tạo đại học quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này nhân hệ số 1,5 đối với đào tạo thạc sĩ, nhân hệ số 2,5 đối với đào tạo tiến sĩ tương ứng với từng khối ngành đào tạo của từng năm học theo các mức độ tự chủ. Mức học phí đào tạo hình thức vừa làm vừa học; đào tạo từ xa được xác định trên cơ sở chi phí hợp lý thực tế với mức thu không vượt quá 150% mức thu học phí so với hệ đào tạo chính quy tương ứng. Trường hợp học trực tuyến (học online), cơ sở giáo dục đại học xác định mức thu học phí trên cơ sở chi phí phát sinh thực tế hợp lý, tối đa bằng mức học phí của cơ sở giáo dục đại học tương ứng từng khối ngành. Mức học phí đối với các chương trình giáo dục thường xuyên, dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn phù hợp với ngành, lĩnh vực đào tạo của mỗi cơ sở theo quy định của pháp luật được các cơ sở giáo dục chủ động tính toán, quy định mức thu theo định mức kinh tế - kỹ thuật hoặc định mức chi phí do cơ sở giáo dục ban hành, bảo đảm tính công khai, minh bạch và giải trình với người học, xã hội. Tổng học phí theo tín chỉ của chương trình đào tạo Về học phí đào tạo đại học tính theo tín chỉ, mô-đun, mức thu học phí của một tín chỉ, mô-đun được xác định căn cứ vào tổng thu học phí của toàn khóa học theo nhóm ngành, nghề đào tạo và tổng số tín chỉ, mô-đun toàn khóa theo công thức dưới đây:Tổng học phí toàn khóa = mức thu học phí 1 sinh viên/1 tháng x 10 tháng x số năm học, bảo đảm nguyên tắc tổng học phí theo tín chỉ của chương trình đào tạo tối đa bằng tổng học phí tính theo niên chế. Trường hợp học quá thời hạn quy định của chương trình đào tạo, học phí tín chỉ áp dụng từ thời điểm quá hạn được xác định lại trên cơ sở thời gian học thực tế trên nguyên tắc bù đắp chi phí và thực hiện công khai, giải trình với người học. Trường hợp đào tạo bằng tốt nghiệp thứ 2 trình độ đại học, người đóng học phí của các tín chỉ thực học theo chương trình đào tạo. Các cơ sở giáo dục công lập căn cứ vào mức trần học phí và định mức kinh tế-kỹ thuật hoặc định mức chi phí của từng ngành, chương trình đào tạo do cơ sở giáo dục ban hành để quyết định mức thu học phí cụ thể đối với từng năm học, ngành, chương trình đào tạo thuộc thẩm quyền quản lý. Đối với các cơ sở giáo dục đại học do các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quản lý trực tiếp: thủ trưởng các cơ sở giáo dục căn cứ vào mức trần học phí trên và định mức kinh tế - kỹ thuật hoặc định mức chi phí của từng ngành, nghề đào tạo do cơ sở giáo dục ban hành để quyết định mức thu học phí cụ thể đối với từng năm học, ngành, nghề đào tạo thuộc thẩm quyền quản lý nhưng không vượt quá mức trần học phí theo quy định. Các cơ sở giáo dục đại học công lập được quy định mức học phí đối với các trường hợp học lại. Mức học phí học lại tối đa không vượt quá mức trần học phí quy định tại Nghị định này phù hợp với từng loại hình đơn vị. Trường hợp tổ chức học riêng theo nhu cầu người học thì mức thu theo thỏa thuận giữa người học và cơ sở giáo dục đại học công lập trên cơ sở bù đắp đủ chi phí. Sinh viên đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh là người nước ngoài đang theo học tại cơ sở giáo dục đại học công lập nộp học phí theo mức thu do cơ sở giáo dục đại học quy định hoặc theo hiệp định, thỏa thuận hợp tác với bên nước ngoài. Nguồn: moet.vn

  • Đang truy cập12
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại13,630
  • Tổng lượt truy cập1,309,041

Bộ Nội vụ: Công bố thủ tục hành chính quy định về tuyển chọn, sử dụng tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia

Ngày 05/9/2025, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đã ký ban hành Quyết định số 997/QĐ-BNV về việc công bố thủ tục hành chính quy định tại Nghị định số 231/2025/NĐ- CP ngày 26/8/2025 của Chính phủ quy định về tuyển chọn, sử dụng Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.Theo Quyết định số 997/QĐ-BNV, có 03 thủ tục hành chính được quy định tại Nghị định số 231/2025/NĐ-CP gồm: (1) Thủ tục tuyển chọn Tổng công trình sư Hệ thống do Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tổ chức thực hiện; (2) Thủ tục tuyển chọn Tổng công trình sư Dự án do Cơ quan chủ trì thực hiện dự án tổ chức thực hiện; (3) Thủ tục tuyển chọn Kiến trúc sư trưởng cấp bộ, cấp tỉnh, Dự án thuộc do Cơ quan cấp bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý dự án tổ chức thực hiện. 03 thủ tục hành chính trên được thực hiện thông qua việc công bố công khai thông tin, tiếp nhận hồ sơ theo cơ chế đề cử, ứng cử, và các hoạt động tổ chức hội đồng tư vấn (nếu có). Việc liên hệ với ứng viên có thể thông qua thư mời. Kết thúc thủ tục hành chính là việc ký kết hợp đồng lao động. Tổng công trình sư Hệ thống có ít nhất 10 năm kinh nghiệm Yêu cầu, điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính đối với Tổng công trình sư Hệ thống phải đáp ứng đồng thời 02 Tiêu chí. Tiêu chí chung: Có trình độ chuyên ngành đào tạo phù hợp với nhiệm vụ ứng tuyển. Ưu tiên người có bằng cấp, chứng chỉ về quản lý chương trình công nghệ lõi, côngnghệ tiên tiến, người đã được tặng giải thưởng quốc gia và quốc tế về lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Có mong muốn cống hiến phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, có lý lịch rõ ràng, có đạo đức tốt; đủ sức khỏe để làm việc; tâm huyết với công việc. Có uy tín, kinh nghiệm, năng lực vượt trội, tiêu biểu trong lĩnh vực chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được giao, đã có các công trình, sáng chế, sản phẩm có giá trị thực tiễn phù hợp với lĩnh vực nhiệm vụ được giao. Có khả năng giải quyết vấn đề kỹ thuật phức tạp, liên ngành; xử lý khủng hoảng công nghệ; đề xuất giải pháp sáng tạo đột phá giúp tăng tốc triển khai dự án trong thời gian giới hạn. Trường hợp ứng viên không đáp ứng đủ các tiêu chí cụ thể theo quy định tại các Điều 6, 7, 8, 9 và 10 của Nghị định số 231/2025/NĐ-CP ngày 28/6/2025 của Chính phủ nhưng có khả năng đáp ứng ngay yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn của Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng thì cấp có thẩm quyền tuyển chọn được quyết định việc tuyển chọn để triển khai chương trình, dự án, nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Tiêu chí tuyển chọn Tổng công trình sư Hệ thống: Có ít nhất 10 năm kinh nghiệm làm việc liên tục trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tính đến thời điểm tuyển chọn. Có khả năng thiết kế, tổ chức và điều phối tổng thể chương trình, dự án với quy mô lớn, nhiều hợp phần, đa ngành, đa cấp, có tính đổi mới sáng tạo và rủi ro cao; có năng lực liên kết, xây dựng mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế. Đã chủ trì tối thiểu 02 Đề án, chương trình khoa học, công nghệ quy mô liên ngành, thuộc lĩnh vực hệ thống chiến lược có chỉ số ảnh hưởng cao hoặc tối thiểu 02 sản phẩm, nhiệm vụ khoa học công nghệ liên ngành, thuộc lĩnh vực hệ thống chiến lược đã được ứng dụng, chuyển giao, thương mại hóa hoặc triển khai áp dụng thành công trong thực tế.Đã trực tiếp quản lý hoặc điều phối đề án, chương trình, dự án có quy mô lớn, liên ngành, lĩnh vực về khoa học, công nghệ, thông tin, tài chính, pháp lý, nhân lực hoặc liên vùng; các chương trình, dự án trong lĩnh vực hạ tầng, công nghệ lõi, chuyển đổi số cấp quốc gia, đã được ứng dụng thành công trong thực tế; đã tham gia xây dựng hoặc triển khai chiến lược chuyển đổi số, chiến lược công nghệ, bản đồ công nghệ quốc gia hoặc ngành. Tổng công trình sư Dự án chủ trì tối thiểu 01 Đề án Tiêu chí chung: Có trình độ chuyên ngành đào tạo phù hợp với nhiệm vụ ứng tuyển. Ưu tiên người có bằng cấp, chứng chỉ về quản lý chương trình công nghệ lõi, công nghệ tiên tiến, người đã được tặng giải thưởng quốc gia và quốc tế về lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Có mong muốn cống hiến phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, có lý lịch rõ ràng, có đạo đức tốt; đủ sức khỏe để làm việc; tâm huyết với công việc; Có uy tín, kinh nghiệm, năng lực vượt trội, tiêu biểu trong lĩnh vực chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được giao, đã có các công trình, sáng chế, sản phẩm có giá trị thực tiễn phù hợp với lĩnh vực nhiệm vụ được giao; Có khả năng giải quyết vấn đề kỹ thuật phức tạp, liên ngành; xử lý khủng hoảng công nghệ; đề xuất giải pháp sáng tạo đột phá giúp tăng tốc triển khai dự án trong thời gian giới hạn. Trường hợp ứng viên không đáp ứng đủ các tiêu chí cụ thể theo quy định tại các Điều 6, 7, 8, 9 và 10 của Nghị định số 231/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 nhưng có khả năng đáp ứng ngay yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn của Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng thì cấp có thẩm quyền tuyển chọn được quyết định việc tuyển chọn để triển khai chương trình, dự án, nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Tiêu chí tuyển chọn Tổng công trình sư Dự án: Có ít nhất 10 năm kinh nghiệm làm việc liên tục trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tính đến thời điểm tuyển chọn. Có khả năng thiết kế, tổ chức và điều phối tổng thể chương trình, dự án với quy mô lớn, nhiều hợp phần, đa ngành, đa cấp, có tính đổi mới sáng tạo và rủi ro cao; có năng lực liên kết, xây dựng mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế. Đã chủ trì tối thiểu 01 Đề án, chương trình khoa học, công nghệ quy mô liên ngành, thuộc lĩnh vực hệ thống chiến lược có chỉ số ảnh hưởng cao hoặc tối thiểu 01 sản phẩm, nhiệm vụ khoa học công nghệ liên ngành, thuộc lĩnh vực hệ thống chiến lược đã được ứng dụng, chuyển giao, thương mại hóa hoặc triểnkhai áp dụng thành công trong thực tế. Đã trực tiếp quản lý đề án, chương trình, dự án có quy mô lớn, liên ngành, lĩnh vực về khoa học, công nghệ, thông tin, tài chính, pháp lý, nhân lực hoặc liên vùng; các chương trình, dự án trong lĩnh vực hạ tầng, công nghệ lõi, chuyển đổi số cấp quốc gia, đã được ứng dụng thành công trong thực tế. Kiến trúc sư trưởng cấp bộ, cấp tỉnh, Dự án Tiêu chí chung: Có trình độ chuyên ngành đào tạo phù hợp với nhiệm vụ ứng tuyển. Ưu tiên người có bằng cấp, chứng chỉ về quản lý chương trình công nghệ lõi, công nghệ tiên tiến, người đã được tặng giải thưởng quốc gia và quốc tế về lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.Có mong muốn cống hiến phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, có lý lịch rõ ràng, có đạo đức tốt; đủ sức khỏe để làm việc; tâm huyết với công việc; Có uy tín, kinh nghiệm, năng lực vượt trội, tiêu biểu trong lĩnh vực chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được giao, đã có các công trình, sáng chế, sản phẩm có giá trị thực tiễn phù hợp với lĩnh vực nhiệm vụ được giao. Có khả năng giải quyết vấn đề kỹ thuật phức tạp, liên ngành; xử lý khủng hoảng công nghệ; đề xuất giải pháp sáng tạo đột phá giúp tăng tốc triển khai dự án trong thời gian giới hạn. Trường hợp ứng viên không đáp ứng đủ các tiêu chí cụ thể theo quy định tại các Điều 6, 7, 8, 9 và 10 của Nghị định số 231/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 nhưng có khả năng đáp ứng ngay yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn của Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng thì cấp có thẩm quyền tuyển chọn được quyết định việc tuyển chọn để triển khai chương trình, dự án, nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Tiêu chí tuyển chọn Kiến trúc sư trưởng cấp bộ: Có ít nhất 07 năm kinh nghiệm làm việc liên tục trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tính đến thời điểm tuyển chọn. Chủ trì hoặc tham gia chính thực hiện thành công tối thiểu 01 chương trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số có phạm vi tác động trong ngành, lĩnh vực; từng tham gia xây dựng hoặc tư vấn chính sách về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Có năng lực xây dựng, điều phối lộ trình công nghệ, kiến trúc tổng thể chương trình, dự án và tổ chức thực hiện nhiệm vụ có tính đổi mới sáng tạo và rủi ro cao; có tư duy chiến lược, tư duy hệ thống và khả năng dẫn dắt tầm nhìn công nghệ hoặc đổi mới sáng tạo ở quy mô ngành, lĩnh vực; Có khả năng làm việc, nghiên cứu, hợp tác quốc tế với tổ chức nước ngoài trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tiêu chí tuyển chọn Kiến trúc sư trưởng cấp tỉnh: Có ít nhất 07 năm kinh nghiệm làm việc liên tục trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tính đến thời điểm tuyển chọn. Chủ trì hoặc tham gia chính thực hiện thành công tối thiểu 01 chương trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số có phạm vi tác động ở địa phương; từng tham gia xây dựng hoặc tư vấn chính sách về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Có năng lực xây dựng, điều phối lộ trình công nghệ, kiến trúc tổng thể chương trình, dự án và tổ chức thực hiện nhiệm vụ có tính đổi mới sáng tạo và rủi ro cao; có tư duy chiến lược, tư duy hệ thống và khả năng dẫn dắt tầm nhìn công nghệ hoặc đổi mới sáng tạo ở quy mô địa phương; Có khả năng làm việc, nghiên cứu, hợp tác quốc tế với tổ chức nước ngoài trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.Tiêu chí tuyển chọn Kiến trúc sư trưởng Dự án: Có ít nhất 05 năm kinh nghiệm làm việc liên tục trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tính đến thời điểm tuyển chọn. Chủ trì triển khai thành công tối thiểu 01 chương trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số có phạm vi tác động ở cấp dự án. Có năng lực triển khai kiến trúc tổng thể chương trình, dự án và tổ chức thực hiện nhiệm vụ có hợp phần khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số của chương trình, dự án. Có khả năng làm việc, nghiên cứu, hợp tác quốc tế với tổ chức nước ngoài trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo. * Sáu thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia Ngày 04/9/2025, Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 990/QĐ-BNV về việc công bố 6 thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp triển khai thí điểm trên Cổng Dịch vụ công quốc gia thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của cơ quan này. Theo đó, 6 thủ tục hành chính cấp tỉnh về bảo hiểm thất nghiệp gồm: Giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp; Thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng; Tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp; Tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp; Liên thông thủ tục chuyển nơi hưởng trợ cấp thất nghiệp (chuyển đi - chuyển đến); Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp. Văn bản của Bộ Nội vụ quy định cụ thể về sơ đồ quy trình, trình tự, cách thức thực hiện trực tuyến. Cùng với đó, còn có thành phần, số lượng hồ sơ; thời hạn giải quyết; đối tượng, cơ quan, kết quả thực hiện thủ tục hành chính, lệ phí, các mẫu đơn, mẫu tờ khai, yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp được quy định lần đầu tiên tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và triển khai từ ngày 01/01/2009. Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp được quy định theo Luật Việc làm năm 2025 là: Trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.Phương Nhung, Trung tâm Công nghệ thông tin, Bộ Nội vụ

Trọng dụng nhân tài khoa học, công nghệ: Đột phá từ chính sách đến thực tiễn

Trong bối cảnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực then chốt cho phát triển đất nước, vấn đề thu hút, trọng dụng nhân tài đang được đặt ở vị trí chiến lược. Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng nhiều bộ, ngành liên quan đang khẩn trương xây dựng các cơ chế, chính sách mới với kỳ vọng sẽ mở ra đột phá, tạo môi trường để nhân tài trong và ngoài nước yên tâm cống hiến. Thiết lập cơ chế riêng cho những cá nhân có năng lực xuất sắc Mới đây, Chính phủ đã ban hành số Nghị định số 231/2025/NĐ-CP về tuyển chọn, sử dụng tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là lần đầu tiên nước ta thiết lập cơ chế riêng cho những cá nhân có năng lực xuất sắc, được ví như “nhạc trưởng” dẫn dắt các chương trình, dự án chiến lược.Theo Nghị định, tổng công trình sư và kiến trúc sư trưởng sẽ được giao quyền, trách nhiệm và đãi ngộ đặc biệt, thậm chí có thể hưởng mức lương tương đương chức danh bộ trưởng, kèm cơ chế hợp đồng linh hoạt, tiền thưởng, nhà ở công vụ và điều kiện làm việc tương xứng. Nghị định cũng xác định rõ tiêu chí lựa chọn khắt khe: Ứng viên phải có trình độ, uy tín, kinh nghiệm và thành tích nổi bật trong nghiên cứu, triển khai các nhiệm vụ quy mô lớn, có khả năng giải quyết vấn đề phức tạp và dẫn dắt liên ngành. Với cơ chế này, những nhà khoa học giỏi sẽ không còn bị bó buộc trong biên chế truyền thống, mà có thể tập trung toàn lực cho nhiệm vụ được giao, được quyền xây dựng đội ngũ cộng sự và trực tiếp đề xuất kinh phí, chính sách cần thiết để bảo đảm hiệu quả... Song song với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang hoàn thiện dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 1/10/2025). Về vấn đề này, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Thị Nga cho biết, điểm nhấn của dự thảo này là coi nhân tài là đối tượng điều chỉnh riêng, thay vì gộp chung như trước. Các cơ chế mới được thiết kế theo hướng linh hoạt và hội nhập quốc tế: Giao trực tiếp nhiệm vụ quan trọng cho nhân tài; xây dựng môi trường nghiên cứu hiện đại, chấp nhận rủi ro trong khoa học; cùng với đó là chính sách lương thỏa thuận theo thị trường, quyền hưởng lợi nhuận từ kết quả nghiên cứu và nhiều hỗ trợ về tài chính, nhà ở, an sinh xã hội... Vẫn còn nhiều thách thức Mặc dù chính sách mới mang nhiều đột phá, câu hỏi lớn đặt ra là làm sao để những cơ chế này thực sự đi vào cuộc sống? Trên thực tế, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Năm 2024, chỉ có 9% và 12% thí sinh chọn các ngành công nghệ kỹ thuật, máy tính và công nghệ thông tin. Lực lượng nghiên cứu hiện tại cũng chỉ đạt một nửa so với mức trung bình của các quốc gia thu nhập trung bình cao. Cơ sở vật chất còn lạc hậu, đội ngũ giảng viên hạn chế, trong khi 30% sinh viên tốt nghiệp làm trái ngành. Đây là những rào cản khiến việc xây dựng đội ngũ nhân tài chất lượng cao trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội Tạ Văn Hạ, ngoài chế độ đãi ngộ, nhân tài cần môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do sáng tạo và cơ chế đánh giá công bằng. Điều này cũng được Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội) chia sẻ: “Việc mời chuyên gia quốc tế về nước là vô cùng khó, không thể chỉ dựa vào mức lương cao. Nhiều dự án trước đây trả hàng chục nghìn USD vẫn thất bại vì thiếu môi trường phù hợp”. Theo ông, chính sách thu hút nhân tài phải gắn với hệ sinh thái nghiên cứu đồng bộ, minh bạch, tạo cơ hội phát huy năng lực và bảo đảm công bằng giữa chuyên gia trong nước và quốc tế.Một vấn đề khác là sự thiếu vắng các “tổng công trình sư” trong nhiều lĩnh vực chiến lược như: Trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghiệp quốc phòng…Việc ban hành cơ chế mới để tuyển chọn và đãi ngộ đặc biệt cho những người đủ khả năng dẫn dắt các chương trình quy mô lớn chính là để lấp đầy khoảng trống này. Song, để tìm được những cá nhân xuất sắc như vậy, Nhà nước không thể thụ động chờ đợi mà cần chủ động tìm kiếm, mời gọi, kể cả từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế. Để chính sách trọng dụng nhân tài thực sự hiệu quả, cần hoàn thiện hành lang pháp lý minh bạch, ổn định; xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu đồng bộ với phòng thí nghiệm hiện đại, cơ chế tự chủ và gắn kết doanh nghiệp. Đồng thời, phải đổi mới đào tạo, phát hiện người tài từ sớm, đặc biệt trong các ngành khoa học cơ bản, công nghệ chiến lược. Trong kỷ nguyên số, khi cạnh tranh toàn cầu về nhân lực khoa học, công nghệ ngày càng khốc liệt, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc trọng dụng nhân tài bằng những chính sách thực chất và môi trường cởi mở. Những bước đi mới từ dự thảo nghị định, đề án nhân tài đến cơ chế “tổng công trình sư”, “kiến trúc sư trưởng” cho thấy quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước. Song, chính sách chỉ phát huy hiệu quả khi đi đôi với sự đồng hành, công bằng và niềm tin. Đó mới là nền tảng để nhân tài khoa học, công nghệ thực sự trở thành lực lượng tiên phong, góp phần đưa Việt Nam bứt phá, vươn lên thành quốc gia phát triển trong tương lai. Nguồn: hanoimoi.vn