PHƯỜNG THÀNH NAM: TƯNG BỪNG KHAI GIẢNG NĂM HỌC MỚI 2025-2026

Sáng ngày 05/9/2025, hoà chung với không khí tưng bừng, phấn khởi của ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo), các trường mầm non, tiểu học và THCS trên địa bàn phường Thành Nam đã long trọng tổ chức lễ khai giảng năm học mới 2025-2026.Nhân dịp này, các đồng chí lãnh đạo Đảng uỷ - HĐND - UBND phường đã tới dự và chúc mừng ngày khai giảng tại tất cả các nhà trường trên địa bàn. Đặc biệt, lễ khai giảng năm học 2025-2026 được tổ chức làm hai phần: Lễ khai giảng trực tiếp và Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) qua truyền hình trực tiếp. Lễ khai giảng trực tiếp được các nhà trường tổ chức trang trọng, ngắn gọn, tạo không khí phấn khởi cho các thầy cô giáo và học sinh khi bước vào năm học mới. Đến 8h sáng các đại biểu cùng toàn thể cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh dự buổi truyền hình trực tiếp Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo). Qua buổi truyền hình trực tiếp, toàn thể ngành giáo dục phường đều cảm nhận được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đối với công tác giáo dục, đào tạo; từ đó thêm quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của địa phương. 

PHƯỜNG THÀNH NAM: TỔ CHỨC THÀNH CÔNG KỲ HỌP THỨ HAI HĐND PHƯỜNG THÀNH NAM

Chiều ngày 29/8/2025 HĐND phường Thành Nam khoá I, nhiệm kỳ 2025-2030 tổ chức Kỳ họp thứ hai Giải quyết công việc phát sinh, đột xuất. Kỳ họp đã thông qua các Nghị quyết:(1) Nghị quyết ban hành Quy chế làm việc của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình khóa I, nhiệm kỳ 2021- 2026.(2) Nghị quyết về việc chuyển đổi thôn (xóm) thành tổ dân phố thuộc phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(3) Nghị quyết về việc phân bổ biên chế cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính, số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, giao chỉ tiêu hợp đồng lao động theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP.(4) Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh phường Thành Nam 6 tháng cuối năm 2025.(5) Nghị quyết kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách địa phương phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(6) Nghị quyết kế hoạch đầu tư công năm 2025 vốn ngân sách địa phương phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.(7) Nghị quyết về việc quyết định dự toán thu, chi ngân sách và phương án phân bổ ngân sách nhà nước năm 2025 phường Thành Nam, tỉnh Ninh Bình.Kỳ họp diễn ra đúng vào dịp cả nước sôi nổi chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Trong không khí tự hào và tri ân các thế hệ đi trước, HĐND phường Thành Nam khẳng định quyết tâm hành động vì mục tiêu “suy nghĩ và hành động với trách nhiệm cao nhất trong kỷ nguyên mới với một không gian phát triển mới”, tạo bước chuyển mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường Thành Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. 

Công khai tiến độ của tỉnh Ninh Bình

Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương và ý nghĩa đối với Công cuộc sắp xếp tổ chức bộ máy của Chính quyền địa phương hiện nay

            Sinh thời, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và kiện toàn chính quyền địa phương phù hợp với điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Sự vững mạnh của chính quyền địa phương trong mỗi giai đoạn lịch sử góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của các cuộc cách mạng, khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay đang được soi đường bởi chỉ dẫn toàn diện và sâu sắc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.           Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương           Một là, xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành của chính quyền địa phương.           Xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với tổ chức chính quyền địa phương, bước đi đầu tiên có ý nghĩa nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh đạo xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành. Hiến pháp năm 1946 với Chương 5 “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính” là văn bản luật sớm nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng, ban hành. Kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung cụm từ địa phương các cấp và dành Chương 7 đề cập đến “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp”. Đã có sự bổ sung cụm từ “địa phương các cấp” vào tên của chương. Hiến pháp năm 1959, điều 78, nêu rõ: “Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định”. Điều 79 của Hiến pháp năm 1959 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”.           Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức chính quyền địa phương. Chương 1 quy định: Các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Các huyện có ủy ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có ban hành chính khu phố. Các thành phố có thể chia thành khu phố có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Như vậy, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương bao gồm hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân (có lúc gọi là ủy ban hành chính) ở các cấp phân định hành chính địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.          Hội đồng nhân dân là cơ quan cấu thành tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở Việt Nam. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 quy định hội đồng nhân dân cấp xã có từ 15 - 25 hội viên chính thức và từ 5 - 7 hội viên dự khuyết. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 20 - 30 hội viên chính thức và 5 hội viên dự khuyết. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được tính theo dân số thông qua nghị định của Bộ Nội vụ. Ngày 23/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 10/SL, điều chỉnh một số quy định: ở mỗi tỉnh sẽ đặt một hội đồng nhân dân bao gồm có từ 20 đến 30 hội viên chính thức và một số hội viên dự khuyết ngang số đơn vị tuyển cử (tức là mỗi đơn cử có một hội viên dự khuyết); đơn vị tuyển cử sẽ là huyện và thị xã. Số hội viên chia cho mỗi huyện và mỗi thị xã sẽ do nghị định của ủy ban hành chính kỳ ấn định.           Ủy ban nhân dân (cách gọi khác là ủy ban hành chính) là cơ quan chấp hành, do hội đồng nhân dân bầu ra; chấp hành nghị quyết, chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958: “Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem “Ủy ban nhân dân (xã, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương”(1). Sắc lệnh số 63/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/11/1945 quy định cách tổ chức ủy ban hành chính gồm có cấp xã, huyện, tỉnh, kỳ. Trong bài viết “Cách tổ chức các ủy ban nhân dân”(2), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ủy ban có từ 5 đến 7 người phải cử ra một chủ tịch, đứng đầu ủy ban, có nhiệm vụ đốc suất, củ soát các ủy viên khác, liên lạc với các cấp bộ trên và các tổ chức trong địa phương, chiêu tập và điều khiển các cuộc họp; một phó chủ tịch, giúp đỡ và thay chủ tịch khi anh này bận hay đi vắng; một thư ký giữ sổ sách, làm biên bản trong các cuộc hội họp; các ủy viên phụ trách chính trị, kinh tế tài chính, quân sự, xã hội. Chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký có thể kiêm phụ trách hoặc kinh tế, tài chính, hoặc tuyên truyền huấn luyện, hoặc quân sự, hoặc xã hội. Họp chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký thành ban thường vụ để chỉ huy công tác hằng ngày. Những ủy viên phụ trách, nếu cần, có thể lấy một số người ngoài ủy ban lập ra các tiểu ban tuyên truyền huấn luyện, tiểu ban tư pháp, tiểu ban quân sự, v.v. Trong các tiểu ban đó, ủy viên phụ trách sẽ làm trưởng ban. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất chi tiết “cách tổ chức của ủy ban nhân dân”. Với cách tổ chức đó, “Ủy ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”(3).           Hai là, xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.           Có 4 nguyên tắc nổi bật được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh khi xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương:           Nguyên tắc dân chủ: Với quan điểm chính quyền từ xã đến Trung ương do dân tổ chức ra, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dân chủ đối với hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương - nơi hằng ngày trực tiếp phụng sự nhân dân. Trong mối quan hệ với nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân vừa là người đại biểu, đại diện thực thi quyền lực được trao cho, vừa là người “đầy tớ” chăm lo, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân “chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương”. Trong mối quan hệ với Nhân dân địa phương, Ủy ban nhân dân vừa là người quản lý, vừa là người “đầy tớ”. Vị trí người quản lý thể hiện trong chức năng, quyền hạn của ủy ban nhân dân được quy định bởi pháp luật. Vị trí người “đầy tớ” thể hiện qua mục tiêu tồn tại và hoạt động của Ủy ban nhân dân hướng đến phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền kiểm soát và bãi miễn của nhân dân khi chính quyền nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng không xứng đáng với sự ủy quyền.           Nguyên tắc tập trung dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan Nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện trong tổ chức Nhà nước của ta”(4). Người chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành chính địa phương và Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(5). Nguyên tắc tập trung dân chủ xác lập chế độ làm việc của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân của chính quyền địa phương.           Nguyên tắc pháp quyền: Được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trên hai khía cạnh chính trong hoạt động của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Trước hết là xác lập nền tảng pháp lý để trên đó kiến tạo ra tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Điều này thể hiện rõ trong chương quy định về chính quyền địa phương của Hiến pháp các năm 1946, 1959 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tạo lập và vận hành của các thành tố trong chính quyền địa phương. Trên nền tảng nguyên tắc pháp quyền, chính quyền địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ để ban hành và thực thi quyết sách nhằm bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật ở địa phương.           Nguyên tắc Đảng lãnh đạo: Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng được xác lập là nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy tại địa phương trong xây dựng ủy ban nhân dân cùng cấp. Người cũng nhắc nhở cấp ủy không được xem nhẹ vai trò của chính quyền, không được “lấn sân” ôm đồm làm thay chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về lãnh đạo các đồng chí có cố gắng, có thành tích nhưng không toàn diện, được việc này nhẹ việc khác... Khuyết điểm nữa là chưa phát huy được tác dụng của chính quyền, Trung ương thường nhắc là phải kinh qua chính quyền mà thực hiện chính sách của Đảng, nhưng các cấp ủy thường coi nhẹ vai trò chính quyền, việc gì cũng bí thư, cũng Đảng ôm đồm làm cả, làm cho chủ tịch ủy ban hành chính trở nên kém tác dụng. Như thế là không đúng, không đúng tức là khuyết điểm cần phải sửa chữa”(6).           Ba là, tổ chức chính quyền địa phương đa dạng trong thống nhất.           Một trong những điểm nổi bật của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 là sự đa dạng trong thống nhất. Tính thống nhất thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động; ở sự thống nhất chấp hành của chính quyền địa phương với trung ương trong thực thi quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung”(7). Hội đồng nhân dân là một bộ phận cấu thành của cơ quan quyền lực nhà nước thống nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người chỉ rõ: “Hiến pháp năm 1946 đã thành lập “Nghị viện nhân dân” và “Hội đồng nhân dân” các cấp. Quốc hội là Hội đồng nhân dân toàn quốc. Ở địa phương thì có Hội đồng nhân dân địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân quyết định những công việc quan trọng nhất ở địa phương”(8).          Tính đa dạng của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương thể hiện ở sự khác nhau trong quy định thành tố cấu thành tổ chức bộ máy chính quyền giữa các cấp địa phương và các địa bàn. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và ban hành nêu rõ: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do hội đồng các xã bầu ra. Với quy định này của Hiến pháp năm 1946 thì cấp bộ và cấp huyện không tổ chức hội đồng nhân dân.           Trong thiết kế hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 quy định nhiệm kỳ hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh là 3 năm; nhiệm kỳ hội đồng nhân dân các cấp khác là 2 năm. Hội đồng nhân dân khu tự trị và tỉnh họp 6 tháng một lần; hội đồng nhân dân thành phố và châu họp 3 tháng một lần. Hội đồng nhân dân thị xã, xã, thị trấn họp ít nhất 3 tháng một lần. Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân cùng cấp nên sự đa dạng của hội đồng nhân dân dẫn đến sự đa dạng trong nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân.           Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cho thấy không có sự giống nhau hoàn toàn giữa các cấp ủy ban hành chính địa phương về cơ cấu ủy viên, nhân sự lãnh đạo và cơ chế tổ chức. Cấp xã và cấp kỳ có 5 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; cấp huyện và cấp tỉnh có 3 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ủy ban hành chính xã do hội đồng nhân dân xã bầu ra; ủy ban hành chính cấp huyện do hội viên hội đồng nhân dân các xã trong huyện bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân huyện bầu ra); ủy ban hành chính cấp tỉnh do hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra; ủy ban hành chính cấp kỳ do hội viên hội đồng nhân dân các tỉnh trong kỳ bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân kỳ bầu ra).           Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 cho phép tùy nhu cầu công tác của mỗi cấp chính quyền địa phương và mỗi địa bàn mà ủy ban hành chính có thể lập ra các cơ quan chuyên môn: Ủy ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập ra các cơ quan chuyên môn. Ủy ban hành chính châu, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, thị xã có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn. Ủy ban hành chính xã, thị trấn có một hoặc nhiều thư ký giúp việc bộ phận thường trực của ủy ban và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn.          Sự đa dạng này phản ánh tính linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn, nhưng hiện hữu trong chỉnh thể thống nhất của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương với quy định hợp lý về mối quan hệ phân công, phối hợp giúp cho chính quyền địa phương vận hành thông suốt và hiệu quả kể cả trong điều kiện chiến tranh, hạ tầng giao thông và kết nối còn nhiều khó khăn.           Bốn là, xây dựng đội ngũ nhân sự cho chính quyền địa phương.           Trong bài viết “Dân vận”, quan điểm “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”(9) đã thể hiện rõ một nguyên tắc nền tảng của việc tuyển chọn, bầu chọn cán bộ, công chức chính quyền địa phương: “do dân cử ra”.          “Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đó là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và bảo đảm hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương với hội viên thật sự là người đại biểu của nhân dân. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được xác định theo số dân tại địa phương và được quy định bởi một nghị định của cơ quan có thẩm quyền. Mọi công dân từ 21 tuổi trở lên đều được ứng cử làm hội viên hội đồng nhân dân, trừ những thành phần luật không cho phép. Bầu cử hội viên hội đồng nhân dân là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị và nhân dân.          Đối với công chức làm việc ở cơ quan chuyên môn của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tuyển dụng theo quy định của Quy chế Công chức do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tại Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950. Quy chế nêu rõ: việc tuyển bổ công chức chỉ căn cứ vào năng lực (thành tích, kinh nghiệm, trình độ văn hóa) xét theo ba cách sau này: qua kỳ thi; theo học bạ hay văn bằng; theo đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Ngoài điều kiện năng lực, do quy tắc ấn định, những người muốn được tuyển vào một ngạch công chức phải có quốc tịch Việt Nam; đủ 18 tuổi. Đối với một vài ngạch đặc biệt, quy tắc có thể ấn định một hạn tuổi tối thiểu cao hơn; hạnh kiểm tốt; có quyền công dân; có đủ sức khỏe theo giấy chứng nhận của một y sĩ công. Đồng bào dân tộc thiểu số, cựu binh thương binh, quân nhân có chiến công sẽ được ưu đãi trong việc tuyển dụng.           Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng phòng, chống các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động của chính quyền địa phương. Năm 1948, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn”, Người nhận định: “phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”(11). Năm 1952, trong “Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II”, Người cũng nhận định: “Cấp xã nhiều nơi còn xộc xệch lắm”(12). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ ra những căn bệnh, biểu hiện tiêu cực và chỉ dẫn biện pháp để kiên quyết khắc phục.           Ý nghĩa và vận dụng trong xây dựng tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương hiện nay           Hiện nay, yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải “khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”. Với phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng”, việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương gắn liền với sắp xếp các cấp hành chính đang được tiến hành khẩn trương, chắc chắn. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đổi mới có tầm vóc cách mạng này là tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.           Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị diễn ra với khối lượng công việc lớn với nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra đòi hỏi khẩn trương nhận thức và có đối sách giải quyết đúng đắn để bảo đảm đạt được mục tiêu tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, trực tiếp là gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đã khẳng định bài học: Trước mỗi khó khăn, thử thách đặt ra, tư tưởng Hồ Chí Minh là cẩm nang thần kỳ mang lại chỉ dẫn phương pháp luận đúng đắn để nhận thức, giải quyết và vượt qua.           Tính đa dạng và thống nhất trong tổ chức chính quyền địa phương phản ánh qua quan điểm và thực tiễn lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy cần có tư duy đổi mới trên nền tảng bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn. Trong điều kiện kháng chiến với nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền địa phương không hoàn toàn đồng nhất mà có điểm khác nhau phản ánh tính đặc thù của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn. Hơn hai thập niên đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần lãnh đạo việc điều chỉnh, sắp xếp chính quyền địa phương với sự thay đổi cả về cấp hành chính lẫn cơ cấu nhân sự và đơn vị trực thuộc. Việc kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp kỳ và thiết kế lại tổ chức chính quyền địa phương ngay trong điều kiện đất nước vừa kháng chiến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với rất nhiều khó khăn đã thể hiện tinh thần quyết tâm đổi mới trên nền tảng “dĩ công vi thượng”. Sự đổi mới này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của một giai đoạn cách mạng và quay trở lại phục vụ, thúc đẩy giai đoạn cách mạng ấy. Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Mỗi giai đoạn cách mạng phải có bộ máy để thực thi đường lối, chính sách pháp luật, bảo đảm mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển. Đây là thời điểm vàng triển khai tinh gọn, sắp xếp bộ máy để đạt được các mục tiêu đề ra, trong đó có mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân(13). Việc kết thúc hoạt động của cấp hành chính kỳ với bộ máy chính quyền địa phương tương ứng và sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền địa phương các cấp còn lại dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng soi chiếu cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay, bao gồm cả việc kết thúc hoạt động của chính quyền cấp huyện, việc tổ chức, sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền cấp tỉnh và cấp xã hiện nay.           Yêu cầu quan trọng của việc sắp xếp, điều chỉnh chính quyền địa phương hiện nay là hoàn thiện thể chế với quy định cụ thể về nguyên tắc, chế độ làm việc, bộ máy và nhân sự, mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với Trung ương. Quá trình lãnh đạo xây dựng chính quyền địa phương của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là quá trình xây dựng và ban hành 2 bản Hiến pháp, nhiều luật và sắc lệnh với quy định vừa mang tầm vĩ mô, vừa cụ thể chi tiết định hình nên khung thể chế cho sự vận hành phù hợp điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Trong đó, quy định rất toàn diện, cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của các thành tố trong chính quyền địa phương. Quy định này vừa có tính “đóng”, vừa có tính “mở”, nghĩa là vừa ấn định cụ thể phải triệt để chấp hành, vừa “mở” cho chủ động phù hợp với điều kiện thực tế. Chính quyền địa phương phải phục tùng Trung ương, chính quyền địa phương cấp dưới phải phục tùng chính quyền địa phương cấp trên, đồng thời nhấn mạnh được quyền quyết định mọi việc “trong phạm vi địa phương và trong phạm vi luật lệ quy định” và “không được trái với chỉ thị của các cấp trên”. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng thể chế với sự phân định rất rõ chức năng, nhiệm vụ của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; phân định rõ cơ quan quyền lực nhà nước, ban hành nghị quyết với cơ quan chấp hành, thực thi. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng đề ra và thực hiện chủ trương: “Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”... Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện”(14).           Cán bộ, công chức, viên chức là nhân tố quan trọng của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Do vậy, mọi hoạt động sắp xếp, xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đều liên quan mật thiết với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay chính là dịp để sàng lọc, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho tinh gọn và hiệu quả hơn; “gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh”(15). Đảng ta chủ trương: “Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội”(16). Xác định biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, xây dựng khung tiêu chuẩn, bố trí cán bộ, đánh giá và sàng lọc cán bộ, sử dụng người có năng lực nổi trội - công việc “then chốt” của xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương trước đây và hiện nay - đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện trong nhiều năm xây dựng chính quyền cách mạng. Bước đi, cách làm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương cả “đầu vào” (thi tuyển nhiều môn và nghiêm túc) lẫn “đầu ra” (đánh giá cán bộ, nhân dân bãi miễn); đạo đức lẫn năng lực, phong cách, lối làm việc; tuyển chọn, huấn luyện, sử dụng, đánh giá cán bộ; xây dựng yếu tố tích cực lẫn kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; thu hút và sử dụng nhân tài;... để lại cho quá trình sắp xếp, sàng lọc cán bộ hiện nay chỉ dẫn nguyên vẹn giá trị.           Yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi khẩn trương thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với tính chất là nhiệm vụ chủ đạo, tiên quyết. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với việc tinh gọn tổ chức bộ máy này, tiết kiệm tiền chỉ là một phần thôi, quan trọng hơn cả là hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả bộ máy, đưa đất nước phát triển lên”(17). Toàn dân tộc đang đứng trước “thời cơ vàng” để thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ quá trình to lớn và khẩn trương đó phải thấm nhuần căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”(18). Chính vì vậy, Kết luận số 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/02/2025, “Về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Đối với cấp xã: Cần xác định rõ các mô hình chính quyền địa phương cấp xã đối với khu vực đô thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo, quy mô dân số, diện tích, lịch sử, văn hoá, các vấn đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, dân tộc, tôn giáo...”. PGS. TS. Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Nguồn: tapchicongsan.org.vn ----------------- (1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.12, 12-14. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.14. (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.379. (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.263-264. (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.75. (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.264. (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460. (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.391. (13) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo Nhân Dân điện tử, ngày 13/02/2025, https://nhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-sap-xep-tinh-gon-bo-may-de-dat-muctieu-tang-truong-kinh-te-va-nang-cao-doi-song-nhan-dan-post859825.html.(14) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số 1050, tháng 11/2024, tr.15. (15), (16) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tlđd, tr.15. (17) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo điện tử Chính phủ, ngày 13/02/2025, https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-day-la-thoi-co-vang-de-sap-xep-tinhgon-bo-may-102250213164125207.htm.(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460.

  • Đang truy cập16
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại13,630
  • Tổng lượt truy cập1,309,041

Lập Hội đồng thẩm định đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển

Ngày 04/9/2025, Phó Thủ tướng Lê Thành Long ký Quyết định số 1895/QĐ-TTg về việc thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển giai đoạn 2026- 2035 (Hội đồng).Theo Quyết định, Bộ trưởng Bộ Tài chính làm Chủ tịch Hội đồng. Phó Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Tài chính. Ủy viên Hội đồng là lãnh đạo các Bộ: Y tế, Xây dựng, Công an, Quốc phòng, Tư pháp, Nội vụ, Công Thương, Giáo dục và Đào tạo, Nông nghiệp và Môi trường, Khoa học và Công nghệ, Văn hóa, Thể thao và Du lịch và lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bộ Tài chính là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định nhà nước. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Hội đồng thẩm định nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn sau: tổ chức thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình, trình Chính phủ xem xét, quyết định; yêu cầu cơ quan được giao chuẩn bị Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình cung cấp các tài liệu, thông tin có liên quan đến Chương trình để phục vụ công tác thẩm định; khi cần thiết, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ để đáp ứng các yêu cầu thẩm định; xem xét, quyết định kế hoạch thẩm định và các vấn đề khác có liên quan trong quá trình thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình... Hội đồng thẩm định nhà nước làm việc theo chế độ tập thể dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng. Hội đồng được sử dụng con dấu và tài khoản (nếu cần) của Bộ Tài chính để phục vụ cho hoạt động của Hội đồng. Trách nhiệm của cơ quan thường trực Hội đồng Cơ quan thường trực Hội đồng có trách nhiệm huy động bộ máy giúp Chủ tịch Hội đồng tổ chức công việc thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình và các hoạt động chung của Hội đồng; phối hợp với các cơ quan để thực hiện các công việc thẩm định; tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình, gửi hồ sơ Chương trình đến các thành viên Hội đồng, lập và trình kế hoạch thẩm định Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình.Cơ quan thường trực Hội đồng có trách nhiệm tổng hợp các ý kiến của thành viên Hội đồng, đề xuất, trình Chủ tịch Hội đồng xem xét, quyết định những vấn đề cần xử lý trong quá trình thẩm định; chuẩn bị các chương trình, nội dung, dự kiến các nội dung kết luận và biểu quyết, mời họp, tài liệu và phương tiện làm việc cho các phiên họp của Hội đồng. Chuẩn bị các nội dung yêu cầu bổ sung, sửa đổi hồ sơ theo yêu cầu của các thành viên trong Hội đồng, các Tổ, nhóm chuyên môn trong quá trình thẩm định, trình Chủ tịch Hội đồng (hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng) thông qua và ký văn bản yêu cầu bổ sung, làm rõ hồ sơ và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Hội đồng giao; chuẩn bị báo cáo của Hội đồng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trung Kiên, Trung tâm Công nghệ Thông tin, Bộ Nội vụ

Nghị quyết số 57-NQ/TW và vai trò thúc đẩy đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Phát triển khoa học và công nghệ là xu thế tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của nhân loại, là yêu cầu không thể thiếu để bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển đất nước, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là nghị quyết quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các yếu tố cốt lõi, quyết định sự phát triển bền vững và cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. Những yếu tố này không chỉ là động lực mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, trở thành một quốc gia giàu mạnh, hùng cường. Nghị quyết nhấn mạnh: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yếu tố quyết định sự phát triển vượt bậc của các quốc gia; đây là cơ hội tốt nhất để Việt Nam xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh và vững bước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(1) . Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 57- NQ/TW đóng vai trò như kim chỉ nam trong việc định hướng các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp thiết trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với tầm nhìn chiến lược, nghị quyết không chỉ giải quyết những thách thức trước mắt mà còn định hình lộ trình dài hạn để xây dựng nền tảng phát triển khoa học và công nghệ bền vững. Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức, nghị quyết hướng tới việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy các ngành công nghệ tiên tiến và xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và ứng dụng công nghệ số làm động lực phát triển. Nghị quyết không chỉ là một giải pháp chiến lược mà còn là sự cam kết mạnh mẽ của Đảng trong việc đưa dân tộc Việt Nam tiến xa hơn, khẳng định vị thế của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình. Nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí, quyết tâm hành động của các chủ thể trong phát triển khoa học, công nghệ Nghị quyết số 57-NQ/TW được Đảng ta ban hành trong bối cảnh đất nước chuẩn bị tổng kết 40 năm đổi mới (1986 - 2026), chuẩn bị mọi nguồn lực, động lực để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình, khẳng định vị trí, vai trò, tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế. Nội dung cơ bản của Nghị quyết số 57-NQ/TW làm rõ các quan điểm chỉ đạo, chủ trương, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Xác định rõ đây là “một đột phá”, là “động lực” để phát triển toàn diện xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước bứt phá, phát triển vượt bậc.Từ góc độ nhận thức, vai trò của Nghị quyết số 57-NQ/TW được thể hiện trên hai khía cạnh: Một là, góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ. Các chủ thể đó là cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nhân, doanh nghiệp cùng các tầng lớp nhân dân. Nhận thức đúng là điều kiện, tiền đề tiên quyết cho tổ chức thực hiện hiệu quả. Nếu hiểu không đúng nghị quyết hoặc hiểu qua loa, đại khái thì khó có thể tổ chức thực hiện tốt, hiệu quả. Mức độ thẩm thấu, thâm nhập của Nghị quyết số 57-NQ/TW vào các chủ thể nhận thức quyết định khả năng đưa nghị quyết vào cuộc sống và tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tế. Hai là, nếu tất cả các chủ thể tham gia vào phát triển khoa học, công nghệ đều thẩm thấu, nhận thức sâu sắc tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW sẽ tạo được cơ sở về mặt nhận thức, qua đó thống nhất ý chí, quyết tâm hành động của các chủ thể. Bởi lẽ, ý chí và quyết tâm hành động được xây dựng trên nền tảng nhận thức. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ nội dung cơ bản của nghị quyết là cơ sở để hình thành ý chí, quyết tâm. Mặt khác, ý chí, quyết tâm trở thành động lực tinh thần thôi thúc các chủ thể tham gia vào hiện thực hóa các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ. Chẳng hạn, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định, đến năm 2030: “Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp”(2) Để hiện thực hóa mục tiêu trên, các chủ thể có liên quan cần hiểu được mục tiêu, hiểu đúng nội hàm của mục tiêu, trên cơ sở đó xây dựng những kế hoạch, chương trình, giải pháp phù hợp với địa phương, đơn vị trên cơ sở chiến lược tổng thể quốc gia. Chỉ có như vậy, mục tiêu đề ra của nghị quyết mới có thể thành hiện thực. Để phát huy vai trò nâng cao nhận thức và thống nhất ý chí, quyết tâm hành động trong phát triển khoa học, công nghệ của Nghị quyết số 57-NQ/TW, trước hết cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt đến các chủ thể, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp trong hệ thống chính trị, trong doanh nghiệp. Cần phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, thông tấn, báo chí trong việc phổ biến nội dung, tinh thần, mục tiêu cơ bản và các nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết đến các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Tập trung quán triệt, nâng cao nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu, nhất là ở các cơ quan thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ; chú ý đến các doanh nghiệp, doanh nhân, nhà khoa học và đội ngũ làm việc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, ý chí, quyết tâm hành động, Nghị quyết số 57-NQ/TW giữ vai trò tập hợp lực lượng và xác định chủ thể cơ bản trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát triển khoa học, công nghệ là nhiệm vụ quan trọng và thực hiện nhiệm vụ này cần có sự tham gia của các chủ thể, như cán bộ, đảng viên, doanh nhân và các tầng lớp nhân dân. Nhận thức đúng, đầy đủ về nội dung của nghị quyết là cơ sở huy động, tập hợp các chủ thể tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ. Giá trị thực tiễn, sức mạnh của Nghị quyết số 57-NQ/TW chỉ có thể được thực hiện khi nó thâm nhập vào các chủ thể, tác động vào nhận thức, niềm tin, lý tưởng của các chủ thể và chuyển hóa chúng thành hành động trong thực tế. Đề cập đến vai trò của nghị quyết trong việc tập hợp lực lượng phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định: “Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”(3) .Thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định, đến năm 2030, “tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng”; đến năm 2045, “khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao”. Theo đó, việc phát triển khoa học, công nghệ được Đảng chủ trương đổi mới một cách toàn diện. Tính toàn diện thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề nhằm tạo ra sức mạnh tổng thể về khoa học và công nghệ cho sự phát triển của tất cả các ngành, lĩnh vực. C. Mác từng dự báo, tri thức khoa học phổ biến sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó thâm nhập, thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất như: người lao động, công cụ lao động, phương tiện lao động, đối tượng lao động. Đổi mới toàn diện chiến lược phát triển khoa học, công nghệ theo tinh thần Nghị quyết số 57- NQ/TW tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trên hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề. Sự phát triển nhanh, vượt bậc của lực lượng sản xuất là điều kiện vật chất để hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo tiền đề về kinh tế - vật chất nhằm điều chỉnh các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới toàn diện trong lĩnh vực khoa học, công nghệ gắn liền với tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm. Tính trọng tâm, trọng điểm trong chiến lược phát triển khoa học, công nghệ được Đảng chỉ rõ trên hai khía cạnh: Trước hết, cần tập trung hoàn thiện thể chế, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng kết cấu hạ tầng và hướng đến làm chủ các công nghệ chiến lược. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định: “Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước”(4). Đồng thời với đó là tập trung, ưu tiên các ngành, lĩnh vực then chốt, góp phần từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia làm chủ về khoa học, công nghệ để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.Các lĩnh vực then chốt có thể kể đến như: công nghệ chiến lược; đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu cơ bản; thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới… Để hiện thực hóa các lĩnh vực then chốt, Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu ưu tiên nguồn lực quốc gia vào các lĩnh vực cần thiết; phát huy sức mạnh trí tuệ con người Việt Nam; nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; từng bước tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế. Tư duy, quan niệm của Đảng về thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo nhằm thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững. Đó là quá trình phát triển toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và tập trung vào các lĩnh vực then chốt là tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển xã hội hài hòa, trên cơ sở bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khoa học, công nghệ có tác dụng thúc đẩy phát triển bền vững, giúp tăng trưởng, phát triển kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; tạo điều kiện thực hiện tốt các chính sách xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển, ứng dụng công nghệ trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định đúng đắn cách tiếp cận trong phát triển lĩnh vực khoa học, công nghệ, chỉ ra các các lĩnh vực then chốt cần đầu tư, tập trung. Đồng thời huy động, sử dụng các nguồn lực một cách có trọng tâm, trọng điểm, đúng với xu thế phát triển chung của nhân loại, xu hướng phát triển của dân tộc. Việc tập trung hoàn thiện thể chế, nhân lực, hạ tầng chiến lược sẽ tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi, tiến bộ; tháo gỡ những điểm nghẽn cho quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Việc ưu tiên phát triển các lĩnh vực then chốt, nguồn lực cơ bản tạo ra khả năng khai thác tối đa, hiệu quả các nguồn lực trong phát triển khoa học và công nghệ. Trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW tạo ra một xung lực mới, động lực cho phát triển đất nước, tạo thế và lực để Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển, vươn mình. Xác định, tháo gỡ các điểm nghẽn của quá trình phát triển khoa học, công nghệ hiện nay Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác định 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn tới. Các nhiệm vụ, giải pháp tập trung vào tháo gỡ, cởi trói những điểm nghẽn về nhận thức, thể chế, hạ tầng, nhân lực, phát triển lĩnh vực mũi nhọn của khoa học và công nghệ. Về nhận thức, Nghị quyết số 57-NQ/TW chú trọng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về quán triệt, thực hiện nghị quyết; nêu cao trách nhiệm người đứng đầu, tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ. Từng bước “xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển” như: Tư tưởng bảo thủ, trì trệ; tư tưởng thờ ơ, bàng quan, chung chung; tư tưởng ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm; quan niệm “không quản được thì cấm”… Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; triển khai sâu rộng phong trào "học tập số", kiến thức số trong cán bộ, công chức và nhân dân; thực hiện tốt, đa dạng các hình thức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp thời các chủ thể có phát minh, sáng kiến có giá trị trong “nâng cao hiệu quả công tác, hiệu suất công việc, dù là nhỏ nhất”.Về thể chế, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế là một trong ba đột phá chiến lược (từ Đại hội XI, năm 2011) và tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế được xem như là tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn” trong phát triển. Tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế được Nghị quyết số 57-NQ/TW đề cập và tập trung chỉ đạo thực hiện. Đảng xác định khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học và công nghệ, về đầu tư, về ngân sách, có cách tiếp cận mở và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học… nhằm cởi trói về mặt pháp lý trong thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, tiến hành cải cách hoạt động quản lý hành chính nhà nước về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các biện pháp, như: Cải cách cơ chế quản lý tài chính, giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với các chủ thể trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan; hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số; thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ; thu hút, sử dụng, phân bổ có hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ… Đối với các chủ thể là doanh nghiệp, Nghị quyết số 57-NQ/TW yêu cầu phải có cơ chế, chính sách khơi dậy tinh thần, khát vọng khởi nghiệp, phát triển, đổi mới, sáng tạo. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh; khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển hạ tầng, công nghệ chiến lược, nhằm hình thành các doanh nghiệp lớn, dẫn dắt quá trình chuyển đổi số quốc gia và năng lực cạnh tranh quốc tế. Nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thực hiện những nhiệm vụ trên. Cơ chế, chính sách cần tập trung vào cơ chế ưu đãi (đất đai, tín dụng, thuế, dịch vụ công…), hỗ trợ doanh nghiệp trong đầu tư nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp tái đầu tư hạ tầng, đầu tư nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy chuyển giao khoa học và công nghệ thông qua vai trò của Nhà nước… Về hạ tầng cho khoa học, công nghệ, phát triển hạ tầng, trong đó có hạ tầng số, là một trong ba đột phá chiến lược được Đảng đề cập từ Đại hội XI (năm 2011). Phát triển hạ tầng cho khoa học, công nghệ là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 57-NQ/TW chỉ rõ, cần ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược, thành lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược. Ban hành các chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trên các lĩnh vực, như: Khai thác không gian (ngầm, biển, vũ trụ...); phát triển năng lượng mới, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo hướng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; phát triển hạ tầng viễn thông, internet, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo, phát triển ngành công nghiệp IoT và xây dựng một số cụm công nghiệp IoT di động; xây dựng trung tâm dữ liệu, lưu trữ quốc gia... Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp trong nước và một số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển khoa học - công nghệ. Tăng cường các cơ chế hợp tác công tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.Về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, cùng với đột phá về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một đột phá chiến lược trong quá trình phát triển đất nước hiện nay và trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng ta đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội XI (năm 2011). Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng, hàng đầu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tháo gỡ điểm nghẽn trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tranh thủ, tận dụng, phát huy tối đa vai trò của nhân tố con người trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát huy vai trò của khoa học, công nghệ trong giai đoạn hiện nay không thể không tập trung xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định cần phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nghị quyết yêu cầu tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, cụ thể: Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng, học phí thu hút sinh viên giỏi trên các lĩnh vực, các chuyên gia nước ngoài về Việt Nam làm việc, sinh sống; xây dựng, kết nối và phát triển hệ thống chuyên gia, nhà khoa học trong nước; phát triển đội ngũ nhà khoa học đủ năng lực, trình độ tiếp cận với chuẩn quốc tế. Đồng thời, Nhà nước cần xây dựng một số trung tâm đào tạo chuyên sâu về phát triển khoa học, công nghệ, xây dựng nền tảng giáo dục, đào tạo hiện đại, hội nhập quốc tế và phát triển các ngành khoa học cơ bản, công nghệ chíp bán dẫn, kỹ thuật và công nghệ then chốt. Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một đột phá, là nguồn sức mạnh quan trọng để đất nước phát triển nhanh, bền vững, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nghị quyết số 57-NQ/TW ra đời nhằm phát huy tối đa vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong thúc đẩy đất nước phát triển hiện nay. Nghị quyết góp phần nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí, hành động của các chủ thể trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ; thúc đẩy đổi mới toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tháo gỡ những điểm nghẽn trong phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay. Trần Nhật Minh - TS. Phùng Thị An Na - PGS. TS. Võ Văn Dũng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trường Đại học Khánh Hòa Nguồn: tapchicongsan.vn ----------------------------- (1), (2), (3), (4) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.