Ngày 20/8/2025, đồng chí Trần Huy Thành - Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND phường Thành Nam chủ trì cùng lãnh đạo UBND phường, lãnh đạo các phòng chuyên môn đến thăm và làm việc với các trường mầm non, tiểu học, THCS trên địa bàn phường.Đồng chí Chủ tịch UBND phường cùng các đồng chí trong Đoàn công tác đã khảo sát tình hình thực tế cơ sở vật chất, công tác chuẩn bị cho năm học mới của các nhà trường; nghe báo cáo tình hình hoạt động, đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc cũng như những đề xuất, kiến nghị của các nhà trường để hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo trong thời gian tới.Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Chủ tịch UBND phường đã ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của các nhà trường trong công tác dạy và học, biểu dương thành tích các nhà trường đã đạt được trong thời gian qua. Đồng chí cũng mong muốn các nhà trường trong thời gian tới tiếp tục khắc phục mọi khó khăn, phát huy tinh thần trách nhiệm, không ngừng nỗ lực vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2025-2026 cũng như các chỉ tiêu về giáo dục đào tạo mà Đại hội Đảng bộ phường Thành Nam lần thứ I đã đề ra.Với những khó khăn, vướng mắc của các nhà trường, đồng chí Chủ tịch UBND phường đã chỉ đạo các phòng chuyên môn cùng với các trường tập trung triển khai một số nhiệm vụ sau:Một là, tập trung rà soát cơ sở vật chất; kịp thời sửa chữa những công trình, trang thiết bị đã cũ; bổ sung những hạng mục còn thiếu trên tinh thần ưu tiên cho các phòng học, phòng chức năng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu công tác dạy và học.Hai là, xây dựng phương án đảm bảo đủ nhân lực triển khai nhiệm vụ của nhà trường trong năm học; hạn chế đến mức cao nhất tình trạng thiếu cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên tại các nhà trường.Ba là, tăng cường phối hợp với địa phương, cha mẹ học sinh để triển khai có hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.Bốn là, tăng cường công tác đảm bảo an ninh. an toàn trường học; chuyển đổi số; xây dựng trường học Xanh - Sạch - Đẹp - An toàn.Năm là, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục; có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh chưa đạt; triển khai các hoạt động giáo dục toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng, đạo đức… cho học sinh.
Kỳ họp thứ nhất, HĐND tỉnh Ninh Bình khoá XV, nhiệm kỳ 2021-2026
Ảnh: Quang cảnh kỳ họpDự khai mạc Kỳ họp có các đồng chí: Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; Đinh Thị Lụa, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Mai Văn Tuất, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; các đồng chí Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ; Thường trực HĐND tỉnh; lãnh đạo UBND tỉnh; lãnh đạo Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh; các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh; lãnh đạo Văn phòng Tỉnh uỷ, Văn phòng UBND tỉnh cùng các vị đại biểu HĐND tỉnh.Ảnh: Đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu khai mạc kỳ họpPhát biểu khai mạc Kỳ họp, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh: Nhìn lại chiều dài lịch sử dân tộc, ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình là những địa phương có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng, có đặc điểm tương đồng và gắn bó mật thiết về địa lý, kinh tế, xã hội. Trong suốt hơn một thế kỷ qua, ba tỉnh đã nhiều lần được chia tách, hợp nhất để phù hợp với yêu cầu phát triển từng thời kỳ. Đến nay, trước yêu cầu cấp thiết về tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền, tạo nền tảng vững chắc để đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình được hợp nhất. Đây là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc lịch sử mới trong tiến trình phát triển của vùng đất địa linh nhân kiệt trung tâm Đồng bằng sông Hồng.Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Quốc Chỉnh cho biết, để chính quyền địa phương sau hợp nhất được vận hành ổn định, thông suốt theo chỉ đạo của Trung ương và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, tại kỳ họp này, HĐND tỉnh sẽ xem xét, cho ý kiến và quyết nghị những nội dung quan trọng liên quan đến nhân sự, cơ cấu bộ máy của HĐND tỉnh; Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; kế hoạch tổ chức kỳ họp thường lệ năm 2025 của HĐND tỉnh…Sau phát biểu khai mạc, Kỳ họp nghe thông báo về số lượng và danh sách đại biểu HĐND tỉnh sau sắp xếp, nhiệm kỳ 2021-2026. Theo đó, số lượng đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình sau sắp xếp, nhiệm kỳ 2021-2026 có 128 đại biểu, trong đó: Số lượng đại biểu HĐND tỉnh Nam Định trước sắp xếp: 44 đại biểu; số lượng đại biểu HĐND tỉnh Hà Nam trước sắp xếp: 41 đại biểu; số lượng đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình trước sắp xếp: 43 đại biểu.Kỳ họp đã nghe thông báo Nghị quyết số 1726/NQ-UBTVQH15 ngày 24/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình. Theo đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ định đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy giữ chức vụ Chủ tịch HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Chỉ định các đồng chí: Bùi Hoàng Hà, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Đặng Thanh Sơn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Lê Xuân Huy, Tỉnh ủy viên; Hoàng Văn Kiên, Tỉnh ủy viên; Mai Thanh Long, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Chỉ định các đồng chí: Vũ Thị Kim, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Pháp chế; Nguyễn Thị Nhung, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách; Phạm Anh Tuấn, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2025.HĐND tỉnh cũng đã nghe thông báo Nghị quyết của Thường trực HĐND tỉnh về việc Phê chuẩn số lượng thành viên Ban và danh sách Phó Trưởng ban, Ủy viên các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026, chỉ định Ủy viên UBND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Theo đó, Ban Kinh tế - Ngân sách gồm 23 đại biểu; Ban Pháp chế gồm 20 đại biểu; Ban Văn hóa - Xã hội 18 đại biểu; Ủy viên UBND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026 gồm 15 đồng chí.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tặng hoa chúc mừng các đồng chí lãnh đạo HĐND tỉnh, Trưởng các Ban HĐND tỉnh.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tặng hoa chúc mừng lãnh đạo UBND tỉnh và các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026.Tại Kỳ họp, đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh đã tặng hoa chúc mừng các đồng chí lãnh đạo HĐND tỉnh, Trưởng các Ban HĐND tỉnh; lãnh đạo UBND tỉnh và các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh phát biểu chỉ đạo tại kỳ họpPhát biểu chỉ đạo tại kỳ họp, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh khẳng định: Việc hợp nhất ba tỉnh giàu truyền thống văn hóa, lịch sử và tiềm năng phát triển - Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình - không chỉ là bước đi mạnh mẽ trong cải cách và tổ chức bộ máy nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, các kết luận, chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ mà còn là cơ hội chiến lược để mở rộng không gian phát triển toàn diện, bổ sung cho nhau, khắc phục được những hạn chế, qua đó tạo cơ hội, sức mạnh để bứt phá, tăng tốc phát triển, xây dựng tỉnh Ninh Bình mới là một trong những trung tâm phát triển năng động, hiện đại, bền vững của vùng Đồng bằng sông Hồng. Đồng chí nhấn mạnh: Việc tổ chức mô hình chính quyền địa phương hai cấp đòi hỏi sự đổi mới tư duy, hành động quyết liệt, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là HĐND tỉnh - cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là nơi hội tụ trí tuệ, bản lĩnh, khát vọng phát triển, là trung tâm đoàn kết và quyết sách mọi lợi ích lâu dài của Nhân dân.Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đề nghị HĐND tỉnh cần đặc biệt tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm: Nỗ lực, quyết liệt hơn nữa nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong các quyết sách; phát huy vai trò giám sát, nhất là đối với các lĩnh vực đầu tư công, đất đai, tài nguyên, cải cách hành chính để đảm bảo phát triển năng động và hiệu quả. Phát huy trí tuệ trong việc ban hành kịp thời các cơ chế, chính sách mang tính đột phá tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong các lĩnh vực then chốt như du lịch, dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Ưu tiên phát triển đồng bộ hạ tầng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa - lịch sử đặc sắc của quê hương Ninh Bình.Bên cạnh đó, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh cũng gợi mở một số vấn đề để UBND tỉnh, các cơ quan tham mưu, giúp việc UBND tỉnh sớm tham mưu xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển. Trong đó, trước mắt cần bắt tay ngay vào công tác quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là đầu tư tuyến đường kết nối 3 thành phố trước đây (Nam Định, Hoa Lư, Phủ Lý) và một số dự án trọng điểm phát triển hạ tầng giao thông; đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghiệp, kết nối hạ tầng các khu công nghiệp với các tuyến đường quốc gia; thu hút các nhà đầu tư quốc tế... Nghiên cứu, đề xuất các chính sách thu hút nguồn nhân lực. Tập trung khai thác tiềm năng thế mạnh văn hoá, lịch sử của quê hương để phát triển du lịch sinh thái, du lịch biển, du lịch văn hoá, du lịch vui chơi, giải trí… Đồng thời cần rà soát lại toàn bộ các cơ chế, chính sách liên quan đến giải phóng mặt bằng, tái định cư, an sinh xã hội của 3 tỉnh trước đây để tham mưu điều chỉnh thống nhất, phù hợp.Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tin tưởng với tiềm năng, lợi thế từ vị trí địa lý chiến lược, bề dày truyền thống văn hóa - lịch sử - cách mạng, cùng hệ thống chính trị đồng bộ, đoàn kết; với tinh thần đổi mới, đoàn kết, dân chủ và trách nhiệm cao, HĐND tỉnh Ninh Bình sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng đưa quê hương Ninh Bình bước vào giai đoạn phát triển nhanh, bền vững với tầm nhìn chiến lược và khát vọng vươn lên mạnh mẽ.Thay mặt Thường trực HĐND tỉnh, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu những ý kiến chỉ đạo quan trọng, sâu sắc, toàn diện và tâm huyết của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh. HĐND tỉnh sẽ phát huy tốt vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống chính trị, đồng hành cùng UBND tỉnh, chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành, quản lý, giữ vững kỷ cương, góp phần đưa tỉnh Ninh Bình phát triển vững vàng, xứng đáng với tiềm năng, vị thế và niềm tin của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân trong tỉnh.Tiếp đó, HĐND tỉnh đã nghe Tờ trình về việc đề nghị thành lập các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026; Tờ trình về thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026; Tờ trình về kế hoạch tổ chức kỳ họp thường lệ năm 2025 của HĐND tỉnh; Tờ trình thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; Báo cáo thẩm tra của Ban Pháp chế HĐND tỉnh.Với tinh thần dân chủ, đồng thuận cao, HĐND tỉnh đã biểu quyết thông qua 04 dự thảo nghị quyết.Phát biểu bế mạc Kỳ họp, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh khẳng định: Sau thời gian làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, đoàn kết và trách nhiệm, Kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh Ninh Bình khoá XV, nhiệm kỳ 2021 - 2026 đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra. Đây là Kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định nhiều nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy, tạo cơ sở để chính quyền địa phương vận hành ổn định, hiệu quả trong thời gian tới. Tại Kỳ họp, HĐND tỉnh nhất trí cao và biểu quyết thông qua 04 Nghị quyết. Trong đó có 03 Nghị quyết về tổ chức và nhân sự, là cơ sở để kiện toàn tổ chức bộ máy, bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành liên tục, hiệu lực, hiệu quả ngay từ những ngày đầu của chính quyền địa phương cấp tỉnh sau hợp nhất.Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân trong tỉnh, đồng chí đề nghị: Trong quá trình hoạt động, các cấp, các ngành cần bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như các mục tiêu, định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trọng tâm là tập trung vào bốn đột phá lớn theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị về: Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; về phát triển kinh tế tư nhân.Trên cơ sở các Nghị quyết đã được Kỳ họp thông qua, Thường trực HĐND tỉnh, UBND tỉnh và các sở, ngành, địa phương cần khẩn trương tổ chức thực hiện, ổn định tổ chức, kiện toàn bộ máy hành chính theo đúng quy định; chú trọng xây dựng quy chế hoạt động; bảo đảm hoạt động của chính quyền các cấp đồng bộ, thông suốt, hiệu quả, không bị gián đoạn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện mới, với phương châm “Vận hành thông suốt - hiệu lực - hiệu quả từ tỉnh đến cơ sở”.Đồng chí cũng đề nghị UBND tỉnh sớm xây dựng và ban hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn mới, xây dựng quy hoạch tỉnh bảo đảm xứng tầm với quy mô và vị thế của tỉnh sau hợp nhất, thể hiện rõ tư duy đổi mới, định hướng chiến lược dài hạn, lấy phát triển bền vững, nâng cao chất lượng đời sống Nhân dân làm mục tiêu xuyên suốt; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh vùng trung tâm Đồng bằng sông Hồng…Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu và từng đại biểu HĐND tỉnh cần tiếp tục phát huy vai trò, chủ động, tích cực tham gia xây dựng chính sách, quyết định những định hướng lớn, thực hiện tốt chức năng giám sát để bảo đảm các nghị quyết của HĐND tỉnh được triển khai hiệu quả, đi vào thực tiễn đời sống; đồng thời giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cử tri, từ đó củng cố niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội.Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tăng cường phối hợp chặt chẽ với HĐND tỉnh, UBND tỉnh và các cơ quan, đơn vị có liên quan phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, huy động sức mạnh tổng hợp để cùng chính quyền thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh khẳng định: Việc hợp nhất tỉnh không chỉ là sự sắp xếp lại địa giới hành chính, mà còn là một bước đi chiến lược nhằm tạo lập thế và lực mới cho sự phát triển lớn mạnh, bền vững và hội nhập sâu rộng trong thời đại mới. Tỉnh Ninh Bình hôm nay là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, ý chí đổi mới và khát vọng phát triển. Tin tưởng rằng, với truyền thống lịch sử hào hùng, tinh thần đổi mới sáng tạo và quyết tâm chính trị cao, tỉnh Ninh Bình sau hợp nhất sẽ sớm ổn định tổ chức, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo bứt phá trong phát triển, cùng cả nước bước vào “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc”.Nguồn: https://dbqh.hdnd.ninhbinh.gov.vn/
02/06/2025 Kỳ họp thứ 32 HĐND tỉnh khóa XV
Văn bản mới
Thực hiện Chương trình trợ giúp người khuyết tật
Ngày ban hành: 11/08/2025ủy quyền thực hiện thủ tục hành chính và quản lý nhà nước về lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật
Ngày ban hành: 08/08/2025Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương và ý nghĩa đối với Công cuộc sắp xếp tổ chức bộ máy của Chính quyền địa phương hiện nay
Sinh thời, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và kiện toàn chính quyền địa phương phù hợp với điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Sự vững mạnh của chính quyền địa phương trong mỗi giai đoạn lịch sử góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của các cuộc cách mạng, khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay đang được soi đường bởi chỉ dẫn toàn diện và sâu sắc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương Một là, xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành của chính quyền địa phương. Xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với tổ chức chính quyền địa phương, bước đi đầu tiên có ý nghĩa nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh đạo xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành. Hiến pháp năm 1946 với Chương 5 “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính” là văn bản luật sớm nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng, ban hành. Kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung cụm từ địa phương các cấp và dành Chương 7 đề cập đến “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp”. Đã có sự bổ sung cụm từ “địa phương các cấp” vào tên của chương. Hiến pháp năm 1959, điều 78, nêu rõ: “Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định”. Điều 79 của Hiến pháp năm 1959 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức chính quyền địa phương. Chương 1 quy định: Các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Các huyện có ủy ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có ban hành chính khu phố. Các thành phố có thể chia thành khu phố có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Như vậy, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương bao gồm hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân (có lúc gọi là ủy ban hành chính) ở các cấp phân định hành chính địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hội đồng nhân dân là cơ quan cấu thành tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở Việt Nam. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 quy định hội đồng nhân dân cấp xã có từ 15 - 25 hội viên chính thức và từ 5 - 7 hội viên dự khuyết. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 20 - 30 hội viên chính thức và 5 hội viên dự khuyết. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được tính theo dân số thông qua nghị định của Bộ Nội vụ. Ngày 23/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 10/SL, điều chỉnh một số quy định: ở mỗi tỉnh sẽ đặt một hội đồng nhân dân bao gồm có từ 20 đến 30 hội viên chính thức và một số hội viên dự khuyết ngang số đơn vị tuyển cử (tức là mỗi đơn cử có một hội viên dự khuyết); đơn vị tuyển cử sẽ là huyện và thị xã. Số hội viên chia cho mỗi huyện và mỗi thị xã sẽ do nghị định của ủy ban hành chính kỳ ấn định. Ủy ban nhân dân (cách gọi khác là ủy ban hành chính) là cơ quan chấp hành, do hội đồng nhân dân bầu ra; chấp hành nghị quyết, chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958: “Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem “Ủy ban nhân dân (xã, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương”(1). Sắc lệnh số 63/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/11/1945 quy định cách tổ chức ủy ban hành chính gồm có cấp xã, huyện, tỉnh, kỳ. Trong bài viết “Cách tổ chức các ủy ban nhân dân”(2), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ủy ban có từ 5 đến 7 người phải cử ra một chủ tịch, đứng đầu ủy ban, có nhiệm vụ đốc suất, củ soát các ủy viên khác, liên lạc với các cấp bộ trên và các tổ chức trong địa phương, chiêu tập và điều khiển các cuộc họp; một phó chủ tịch, giúp đỡ và thay chủ tịch khi anh này bận hay đi vắng; một thư ký giữ sổ sách, làm biên bản trong các cuộc hội họp; các ủy viên phụ trách chính trị, kinh tế tài chính, quân sự, xã hội. Chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký có thể kiêm phụ trách hoặc kinh tế, tài chính, hoặc tuyên truyền huấn luyện, hoặc quân sự, hoặc xã hội. Họp chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký thành ban thường vụ để chỉ huy công tác hằng ngày. Những ủy viên phụ trách, nếu cần, có thể lấy một số người ngoài ủy ban lập ra các tiểu ban tuyên truyền huấn luyện, tiểu ban tư pháp, tiểu ban quân sự, v.v. Trong các tiểu ban đó, ủy viên phụ trách sẽ làm trưởng ban. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất chi tiết “cách tổ chức của ủy ban nhân dân”. Với cách tổ chức đó, “Ủy ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”(3). Hai là, xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Có 4 nguyên tắc nổi bật được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh khi xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương: Nguyên tắc dân chủ: Với quan điểm chính quyền từ xã đến Trung ương do dân tổ chức ra, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dân chủ đối với hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương - nơi hằng ngày trực tiếp phụng sự nhân dân. Trong mối quan hệ với nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân vừa là người đại biểu, đại diện thực thi quyền lực được trao cho, vừa là người “đầy tớ” chăm lo, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân “chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương”. Trong mối quan hệ với Nhân dân địa phương, Ủy ban nhân dân vừa là người quản lý, vừa là người “đầy tớ”. Vị trí người quản lý thể hiện trong chức năng, quyền hạn của ủy ban nhân dân được quy định bởi pháp luật. Vị trí người “đầy tớ” thể hiện qua mục tiêu tồn tại và hoạt động của Ủy ban nhân dân hướng đến phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền kiểm soát và bãi miễn của nhân dân khi chính quyền nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng không xứng đáng với sự ủy quyền. Nguyên tắc tập trung dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan Nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện trong tổ chức Nhà nước của ta”(4). Người chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành chính địa phương và Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(5). Nguyên tắc tập trung dân chủ xác lập chế độ làm việc của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân của chính quyền địa phương. Nguyên tắc pháp quyền: Được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trên hai khía cạnh chính trong hoạt động của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Trước hết là xác lập nền tảng pháp lý để trên đó kiến tạo ra tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Điều này thể hiện rõ trong chương quy định về chính quyền địa phương của Hiến pháp các năm 1946, 1959 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tạo lập và vận hành của các thành tố trong chính quyền địa phương. Trên nền tảng nguyên tắc pháp quyền, chính quyền địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ để ban hành và thực thi quyết sách nhằm bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật ở địa phương. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo: Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng được xác lập là nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy tại địa phương trong xây dựng ủy ban nhân dân cùng cấp. Người cũng nhắc nhở cấp ủy không được xem nhẹ vai trò của chính quyền, không được “lấn sân” ôm đồm làm thay chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về lãnh đạo các đồng chí có cố gắng, có thành tích nhưng không toàn diện, được việc này nhẹ việc khác... Khuyết điểm nữa là chưa phát huy được tác dụng của chính quyền, Trung ương thường nhắc là phải kinh qua chính quyền mà thực hiện chính sách của Đảng, nhưng các cấp ủy thường coi nhẹ vai trò chính quyền, việc gì cũng bí thư, cũng Đảng ôm đồm làm cả, làm cho chủ tịch ủy ban hành chính trở nên kém tác dụng. Như thế là không đúng, không đúng tức là khuyết điểm cần phải sửa chữa”(6). Ba là, tổ chức chính quyền địa phương đa dạng trong thống nhất. Một trong những điểm nổi bật của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 là sự đa dạng trong thống nhất. Tính thống nhất thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động; ở sự thống nhất chấp hành của chính quyền địa phương với trung ương trong thực thi quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung”(7). Hội đồng nhân dân là một bộ phận cấu thành của cơ quan quyền lực nhà nước thống nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người chỉ rõ: “Hiến pháp năm 1946 đã thành lập “Nghị viện nhân dân” và “Hội đồng nhân dân” các cấp. Quốc hội là Hội đồng nhân dân toàn quốc. Ở địa phương thì có Hội đồng nhân dân địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân quyết định những công việc quan trọng nhất ở địa phương”(8). Tính đa dạng của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương thể hiện ở sự khác nhau trong quy định thành tố cấu thành tổ chức bộ máy chính quyền giữa các cấp địa phương và các địa bàn. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và ban hành nêu rõ: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do hội đồng các xã bầu ra. Với quy định này của Hiến pháp năm 1946 thì cấp bộ và cấp huyện không tổ chức hội đồng nhân dân. Trong thiết kế hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 quy định nhiệm kỳ hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh là 3 năm; nhiệm kỳ hội đồng nhân dân các cấp khác là 2 năm. Hội đồng nhân dân khu tự trị và tỉnh họp 6 tháng một lần; hội đồng nhân dân thành phố và châu họp 3 tháng một lần. Hội đồng nhân dân thị xã, xã, thị trấn họp ít nhất 3 tháng một lần. Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân cùng cấp nên sự đa dạng của hội đồng nhân dân dẫn đến sự đa dạng trong nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cho thấy không có sự giống nhau hoàn toàn giữa các cấp ủy ban hành chính địa phương về cơ cấu ủy viên, nhân sự lãnh đạo và cơ chế tổ chức. Cấp xã và cấp kỳ có 5 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; cấp huyện và cấp tỉnh có 3 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ủy ban hành chính xã do hội đồng nhân dân xã bầu ra; ủy ban hành chính cấp huyện do hội viên hội đồng nhân dân các xã trong huyện bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân huyện bầu ra); ủy ban hành chính cấp tỉnh do hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra; ủy ban hành chính cấp kỳ do hội viên hội đồng nhân dân các tỉnh trong kỳ bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân kỳ bầu ra). Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 cho phép tùy nhu cầu công tác của mỗi cấp chính quyền địa phương và mỗi địa bàn mà ủy ban hành chính có thể lập ra các cơ quan chuyên môn: Ủy ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập ra các cơ quan chuyên môn. Ủy ban hành chính châu, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, thị xã có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn. Ủy ban hành chính xã, thị trấn có một hoặc nhiều thư ký giúp việc bộ phận thường trực của ủy ban và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn. Sự đa dạng này phản ánh tính linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn, nhưng hiện hữu trong chỉnh thể thống nhất của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương với quy định hợp lý về mối quan hệ phân công, phối hợp giúp cho chính quyền địa phương vận hành thông suốt và hiệu quả kể cả trong điều kiện chiến tranh, hạ tầng giao thông và kết nối còn nhiều khó khăn. Bốn là, xây dựng đội ngũ nhân sự cho chính quyền địa phương. Trong bài viết “Dân vận”, quan điểm “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”(9) đã thể hiện rõ một nguyên tắc nền tảng của việc tuyển chọn, bầu chọn cán bộ, công chức chính quyền địa phương: “do dân cử ra”. “Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đó là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và bảo đảm hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương với hội viên thật sự là người đại biểu của nhân dân. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được xác định theo số dân tại địa phương và được quy định bởi một nghị định của cơ quan có thẩm quyền. Mọi công dân từ 21 tuổi trở lên đều được ứng cử làm hội viên hội đồng nhân dân, trừ những thành phần luật không cho phép. Bầu cử hội viên hội đồng nhân dân là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị và nhân dân. Đối với công chức làm việc ở cơ quan chuyên môn của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tuyển dụng theo quy định của Quy chế Công chức do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tại Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950. Quy chế nêu rõ: việc tuyển bổ công chức chỉ căn cứ vào năng lực (thành tích, kinh nghiệm, trình độ văn hóa) xét theo ba cách sau này: qua kỳ thi; theo học bạ hay văn bằng; theo đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Ngoài điều kiện năng lực, do quy tắc ấn định, những người muốn được tuyển vào một ngạch công chức phải có quốc tịch Việt Nam; đủ 18 tuổi. Đối với một vài ngạch đặc biệt, quy tắc có thể ấn định một hạn tuổi tối thiểu cao hơn; hạnh kiểm tốt; có quyền công dân; có đủ sức khỏe theo giấy chứng nhận của một y sĩ công. Đồng bào dân tộc thiểu số, cựu binh thương binh, quân nhân có chiến công sẽ được ưu đãi trong việc tuyển dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng phòng, chống các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động của chính quyền địa phương. Năm 1948, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn”, Người nhận định: “phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”(11). Năm 1952, trong “Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II”, Người cũng nhận định: “Cấp xã nhiều nơi còn xộc xệch lắm”(12). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ ra những căn bệnh, biểu hiện tiêu cực và chỉ dẫn biện pháp để kiên quyết khắc phục. Ý nghĩa và vận dụng trong xây dựng tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương hiện nay Hiện nay, yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải “khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”. Với phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng”, việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương gắn liền với sắp xếp các cấp hành chính đang được tiến hành khẩn trương, chắc chắn. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đổi mới có tầm vóc cách mạng này là tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị diễn ra với khối lượng công việc lớn với nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra đòi hỏi khẩn trương nhận thức và có đối sách giải quyết đúng đắn để bảo đảm đạt được mục tiêu tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, trực tiếp là gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đã khẳng định bài học: Trước mỗi khó khăn, thử thách đặt ra, tư tưởng Hồ Chí Minh là cẩm nang thần kỳ mang lại chỉ dẫn phương pháp luận đúng đắn để nhận thức, giải quyết và vượt qua. Tính đa dạng và thống nhất trong tổ chức chính quyền địa phương phản ánh qua quan điểm và thực tiễn lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy cần có tư duy đổi mới trên nền tảng bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn. Trong điều kiện kháng chiến với nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền địa phương không hoàn toàn đồng nhất mà có điểm khác nhau phản ánh tính đặc thù của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn. Hơn hai thập niên đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần lãnh đạo việc điều chỉnh, sắp xếp chính quyền địa phương với sự thay đổi cả về cấp hành chính lẫn cơ cấu nhân sự và đơn vị trực thuộc. Việc kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp kỳ và thiết kế lại tổ chức chính quyền địa phương ngay trong điều kiện đất nước vừa kháng chiến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với rất nhiều khó khăn đã thể hiện tinh thần quyết tâm đổi mới trên nền tảng “dĩ công vi thượng”. Sự đổi mới này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của một giai đoạn cách mạng và quay trở lại phục vụ, thúc đẩy giai đoạn cách mạng ấy. Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Mỗi giai đoạn cách mạng phải có bộ máy để thực thi đường lối, chính sách pháp luật, bảo đảm mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển. Đây là thời điểm vàng triển khai tinh gọn, sắp xếp bộ máy để đạt được các mục tiêu đề ra, trong đó có mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân(13). Việc kết thúc hoạt động của cấp hành chính kỳ với bộ máy chính quyền địa phương tương ứng và sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền địa phương các cấp còn lại dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng soi chiếu cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay, bao gồm cả việc kết thúc hoạt động của chính quyền cấp huyện, việc tổ chức, sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền cấp tỉnh và cấp xã hiện nay. Yêu cầu quan trọng của việc sắp xếp, điều chỉnh chính quyền địa phương hiện nay là hoàn thiện thể chế với quy định cụ thể về nguyên tắc, chế độ làm việc, bộ máy và nhân sự, mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với Trung ương. Quá trình lãnh đạo xây dựng chính quyền địa phương của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là quá trình xây dựng và ban hành 2 bản Hiến pháp, nhiều luật và sắc lệnh với quy định vừa mang tầm vĩ mô, vừa cụ thể chi tiết định hình nên khung thể chế cho sự vận hành phù hợp điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Trong đó, quy định rất toàn diện, cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của các thành tố trong chính quyền địa phương. Quy định này vừa có tính “đóng”, vừa có tính “mở”, nghĩa là vừa ấn định cụ thể phải triệt để chấp hành, vừa “mở” cho chủ động phù hợp với điều kiện thực tế. Chính quyền địa phương phải phục tùng Trung ương, chính quyền địa phương cấp dưới phải phục tùng chính quyền địa phương cấp trên, đồng thời nhấn mạnh được quyền quyết định mọi việc “trong phạm vi địa phương và trong phạm vi luật lệ quy định” và “không được trái với chỉ thị của các cấp trên”. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng thể chế với sự phân định rất rõ chức năng, nhiệm vụ của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; phân định rõ cơ quan quyền lực nhà nước, ban hành nghị quyết với cơ quan chấp hành, thực thi. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng đề ra và thực hiện chủ trương: “Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”... Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện”(14). Cán bộ, công chức, viên chức là nhân tố quan trọng của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Do vậy, mọi hoạt động sắp xếp, xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đều liên quan mật thiết với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay chính là dịp để sàng lọc, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho tinh gọn và hiệu quả hơn; “gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh”(15). Đảng ta chủ trương: “Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội”(16). Xác định biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, xây dựng khung tiêu chuẩn, bố trí cán bộ, đánh giá và sàng lọc cán bộ, sử dụng người có năng lực nổi trội - công việc “then chốt” của xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương trước đây và hiện nay - đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện trong nhiều năm xây dựng chính quyền cách mạng. Bước đi, cách làm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương cả “đầu vào” (thi tuyển nhiều môn và nghiêm túc) lẫn “đầu ra” (đánh giá cán bộ, nhân dân bãi miễn); đạo đức lẫn năng lực, phong cách, lối làm việc; tuyển chọn, huấn luyện, sử dụng, đánh giá cán bộ; xây dựng yếu tố tích cực lẫn kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; thu hút và sử dụng nhân tài;... để lại cho quá trình sắp xếp, sàng lọc cán bộ hiện nay chỉ dẫn nguyên vẹn giá trị. Yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi khẩn trương thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với tính chất là nhiệm vụ chủ đạo, tiên quyết. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với việc tinh gọn tổ chức bộ máy này, tiết kiệm tiền chỉ là một phần thôi, quan trọng hơn cả là hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả bộ máy, đưa đất nước phát triển lên”(17). Toàn dân tộc đang đứng trước “thời cơ vàng” để thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ quá trình to lớn và khẩn trương đó phải thấm nhuần căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”(18). Chính vì vậy, Kết luận số 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/02/2025, “Về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Đối với cấp xã: Cần xác định rõ các mô hình chính quyền địa phương cấp xã đối với khu vực đô thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo, quy mô dân số, diện tích, lịch sử, văn hoá, các vấn đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, dân tộc, tôn giáo...”. PGS. TS. Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Nguồn: tapchicongsan.org.vn ----------------- (1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.12, 12-14. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.14. (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.379. (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.263-264. (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.75. (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.264. (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460. (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.391. (13) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo Nhân Dân điện tử, ngày 13/02/2025, https://nhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-sap-xep-tinh-gon-bo-may-de-dat-muctieu-tang-truong-kinh-te-va-nang-cao-doi-song-nhan-dan-post859825.html.(14) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số 1050, tháng 11/2024, tr.15. (15), (16) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tlđd, tr.15. (17) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo điện tử Chính phủ, ngày 13/02/2025, https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-day-la-thoi-co-vang-de-sap-xep-tinhgon-bo-may-102250213164125207.htm.(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460.
Hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm Y tế học sinh, sinh viên năm học 2025-2026
1. Đối tượng Học sinh, sinh viên (HSSV) đang học từ cấp tiểu học trở lên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo các loại hình: công lập, dân lập, tư thục, giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, dạy nghề (trừ những HSSV đã được cấp thẻ BHYT theo nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước đóng 100% mức đóng hoặc hỗ trợ mức đóng cao hơn).2. Mức đóng, phương thức đóng, thời hạn sử dụng thẻ BHYT * Mức đóng- Mức đóng hàng tháng bằng 4,5% mức lương cơ sở tại thời điểm đóng, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ 50% mức quy định đóng, cá nhân HSSV đóng 50% mức đóng còn lại. Số tiền đóng BHYT của HSSV là: 4,5% x 2.340.000 đồng = 105.300 đồng/người/tháng, trong đó:+ Ngân sách nhà nước hỗ trợ: 50% x 105.300 đồng = 52.650 đồng/tháng;+ HSSV đóng: 50% x 105.300 đồng = 52.650 đồng/tháng.Tham gia BHYT đủ 12 tháng (01 năm) thì số tiền thuộc trách nhiệm đóng của HSSV là: 52.650 đồng x 12 tháng = 631.800 đồng/năm.* Phương thức đóng và thời hạn sử dụng thẻ BHYT - Học sinh lớp 1 sinh có ngày sinh trước 02/10/2019 khuyến khích tham gia 15 tháng x 52.650 đồng/tháng = 789.750 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/10/2025 đến 31/12/2026). Trường hợp học sinh lớp 1, sinh từ ngày 02/10/2019, thì đóng BHYT kể từ tháng kế tiếp liền sau với tháng trẻ đủ 72 tháng tuổi (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày đầu của tháng liền sau tháng trẻ đủ 72 tháng tuổi đến ngày 31/12/2026). Ví dụ: học sinh lớp 1, sinh từ ngày 02/10/2019 đến ngày 01/11/2019, đóng 14 tháng x 52.650 đồng/tháng = 737.100 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/11/2025 đến 31/12/2026). Tương tự, nếu sinh từ ngày 02/11/2019 đến ngày 01/12/2019, thì số tháng đóng là 13 tháng, sinh sau ngày 01/12/2019 số tháng đóng là 12 tháng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/01/2026 đến 31/12/2026).- Đối với học sinh lớp 12, mức đóng: 52.650 đồng/tháng x 9 tháng = 473.850 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng thẻ từ 01/01/2026 đến 30/9/2026). Khuyến khích học sinh lớp 12 đóng BHYT đến hết ngày 31/12/2026.- Học sinh, sinh viên năm thứ nhất của khóa học đóng BHYT từ tháng đầu nhập học đến ngày 31/12/2026. Ví dụ: Nhập học ngày 01/10/2025, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng x 15 tháng = 789.750 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/10/2025 đến 31/12/2026). Trường hợp trước đó (học lớp 12) thẻ BHYT còn thời hạn sử dụng đến 31/12/2025, thì đóng BHYT từ tháng liền sau với tháng thẻ BHYT hết thời hạn sử dụng. Ví dụ: Sinh viên năm thứ nhất, nhập học từ ngày 01/10/2025, thẻ BHYT năm học lớp 12 còn thời hạn sử dụng đến ngày 31/12/2025, thì đóng BHYT 12 tháng, bằng: 52.650 đồng/tháng x 12 tháng = 631.800 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng từ 01/01/2026 đến 31/12/2026).- Sinh viên năm cuối của khóa học, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng nhân với số tháng tương ứng, tính từ 01/01/2026 đến ngày cuối của tháng kết thúc khóa học (thẻ BHYT có thời hạn sử dụng từ ngày 01/01/2026 đến ngày cuối của tháng kết thúc khóa học). Ví dụ: Kết thúc khóa học ngày 31/5/2025, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng x 5 tháng = 263.250 đồng (tính từ ngày 01/01/2026 đến 31/5/2026). Các cơ sở giáo dục căn cứ vào ngày cuối cùng của tháng kết thúc khóa học để thu tiền BHYT tương ứng với số tháng. Khuyến khích học sinh, sinh viên năm cuối của khóa học đóng BHYT đến hết ngày 31/12/2026.- Học sinh, sinh viên thuộc diện còn lại: mức đóng 52.650 đồng/tháng x12 tháng = 631.800 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ 01/01/2026 đến 31/12/2026). Lưu ý: Trường hợp HSSV lần đầu tiên tham gia BHYT hoặc đã tham gia BHYT theo một trong các đối tượng quy định tại Điều 12, Luật BHYT nhưng không liên tục từ 90 ngày trở lên thì thẻ BHYT có giá trị sử dụng sau 30 ngày kể từ ngày đóng đủ BHYT.3. Thời hạn thu BHYT HSSV Đối với học sinh lớp 01; sinh viên năm thứ nhất và HSSV chưa tham gia: Hoàn thành thu tiền và lập danh sách (Mẫu D03-TS, gửi kèm) chuyển về cơ quan BHXH trước ngày 30/9/2025 để cập nhật gia hạn thẻ BHYT. Học sinh, sinh viên thuộc diện còn lại hoàn thành trước ngày 10/12/2025.4. Kinh phí khám, chữa bệnh (KCB) trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) và mức hỗ trợ thu BHYT HSSV- Về điều kiện, mức chi, nội dung chi, thanh quyết toán kinh phí KCB trong công tác CSSKBĐ thực hiện theo quy định tại Điều 62, Điều 63 Nghị định số 188/2025/NĐ-CP của Chính phủ. BHXH cơ sở, Phòng Quản lý thu và phát triển người tham gia chịu trách nhiệm trong việc hướng dẫn về điều kiện, mức chi KCB CSSKBD đối với từng cơ sở giáo dục, trường học theo phân cấp quản lý thu.- Kinh phí hỗ trợ tổ chức thu, phát hành thẻ BHYT HSSV tính theo tỷ lệ (%) trên tổng số tiền thực thu BHYT do HSSV đóng để chi hỗ trợ cho những người thực hiện công tác thu, phát thẻ BHYT tại đơn vị. Tỷ lệ thù lao thực hiện theo quy định của BHXH Việt Nam.
Tin bão khẩn cấp sáng ngày 25.8.2025
(Cơn bão số 5): Theo dự báo mới nhất của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia: Hồi 7 giờ ngày 25-8, vị trí tâm bão ở vào khoảng 18.4 độ Vĩ Bắc; 107.2 độ Kinh Đông, cách Nghệ An khoảng 160km về phía Đông Đông Nam, cách Hà Tĩnh khoảng 145km về phía Đông, cách Bắc Quảng Trị khoảng 155km về phía Đông Đông Bắc. Sức gió mạnh nhất: Cấp 14 (150-166km/ giờ), giật cấp 17. Dự báo: Trong 3 giờ tới, bão di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, tốc độ khoảng 15-20km/h.Xem chi tiết tại đây:https://nbtv.vn/phuong-an-ung-pho-khi-bao-so-5-cach-ha...
4 ngày trước Bản tin bão 7h ngày 24/8/2025
5 ngày trước Tin bão khẩn cấp - Bão KaJiKi
5 ngày trước Bản tin bão 10h ngày 23/8/2025
- Đang truy cập24
- Hôm nay191
- Tháng hiện tại13,630
- Tổng lượt truy cập1,309,041
Tăng cường văn hoá công vụ trong các cơ quan hành chính hiện nay
Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Hoạt động công vụ hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội ngày càng hiệu quả, bảo đảm đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.Công vụ thường gắn liền với văn hóa công vụ, với những giá trị cơ bản của hoạt động công vụ. Văn hóa công vụ là hệ thống những giá trị, cách ứng xử, biểu tượng, chuẩn mực được hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển công vụ, có khả năng lưu truyền và có tác động tới tâm lý, hành vi của người thực thi công vụ. Trong mối quan hệ với văn hóa nói chung, các nhà nghiên cứu cho rằng, văn hóa công vụ bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể; là sản phẩm của con người trong hoạt động công vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của cá nhân, tổ chức và xã hội; là hệ thống các giá trị được chấp nhận. Văn hóa công vụ có thể học hỏi và lưu truyền qua các thế hệ, có thể bị lai tạp; thể hiện ở các cấp độ khác nhau, như cá nhân, tổ chức hay hệ thống và phản ánh tầm nhìn, sứ mệnh, các mục tiêu chính của công vụ… Văn hóa công vụ chứa đựng những nội dung nhất định; những tiêu chuẩn hành vi; các nguyên tắc đạo đức lịch sử, truyền thống.Văn hóa công vụ thường được nhận biết ở những khía cạnh, như triết lý, phương châm hành động; chiến lược, chương trình hành động; biểu tượng; quy trình thủ tục, cách thức thực hiện và đánh giá kết quả thực thi công vụ; trang phục; các chuẩn mực ứng xử...Chế độ công vụ của các quốc gia đều hướng tới các giá trị cơ bản, như bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý; tính trách nhiệm trước nhà nước và trước nhân dân; sự tuân thủ pháp luật; tính dân chủ, khách quan, chuyên nghiệp, nhằm phục vụ người dân ngày càng tốt hơn. Trong tiến trình phát triển, ngoài những giá trị hiện có thì những giá trị mới cũng được tìm tòi và sáng tạo ra để đáp ứng yêu cầu phát triển của công vụ. Văn hóa công vụ có một số giá trị cơ bản, như tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, trung thực, khách quan, hiệu quả, tính phục vụ…Tính chuyên nghiệp thể hiện ở năng lực làm việc tốt, tác phong, phong cách chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ; ở sự quy chuẩn hóa các thủ tục, quy trình thực hiện công vụ. Tính chuyên nghiệp đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức phải được đào tạo đúng chuyên ngành, có trình độ kiến thức và kỹ năng thực thi công vụ, có ý thức tốt, tính kỷ luật để đạt hiệu quả công việc cao.Cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ phải tự giác thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của mình đối với nhân dân, với tổ chức và xã hội, tức là bảo đảm trách nhiệm công vụ của mình. Đó là trách nhiệm với công việc, nhiệm vụ, bổn phận, pháp lý; thực thi công vụ, làm đúng việc phải làm và làm một cách tự giác; chịu trách nhiệm, chế tài, liên quan đến kỷ luật, vật chất, hình sự; chịu trách nhiệm với con người, các mối quan hệ, đạo đức,...Một trong những giá trị cốt lõi của văn hóa công vụ là tính trung thực và khách quan của nền công vụ, thể hiện trong các quy định, cách thực thi công vụ và trong kết quả thực hiện công vụ. Nếu những quy định còn thiếu sót và tạo lỗ hổng để người thực thi công vụ thực hiện không trung thực, không khách quan thì nền công vụ đó khó có thể phát triển được. Tính minh bạch của công vụ đòi hỏi mọi hoạt động công vụ phải rõ ràng, tường minh, các quy định, các quy trình phải cụ thể, công khai để người thực hiện cũng như người dân có thể thực hiện và kiểm tra được. Thực hiện công vụ phải báo cáo, giải trình quá trình thực thi công vụ, kết quả đạt được và tính hiệu quả của quá trình thực thi công vụ; thực hiện công khai về tài sản, công khai về thông tin, quan hệ, công khai về thực hiện chức trách, phận sự của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; qua đó góp phần nâng cao trình độ, năng lực làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; phòng, chống tham nhũng, lãng phí.Giá trị phục vụ là một trong các giá trị cơ bản cốt lõi của văn hóa công vụ. Mục tiêu cao nhất của nền hành chính hiện đại là phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của người dân, bảo đảm mọi điều kiện để người dân thực hiện các hoạt động tạo ra của cải vật chất cũng như các hoạt động hữu ích khác cho sự phát triển của xã hội. Bảo đảm yêu cầu phục vụ là bảo đảm cho mối quan hệ thực chất giữa chính quyền với nhân dân, hạn chế quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, mang đến sự tin cậy, hài lòng của người dân. Tính phục vụ không chỉ thể hiện ở cách thức phục vụ, quy trình tổ chức thực hiện công việc của các cơ quan nhà nước mà còn thể hiện ở cách thức làm việc, cách phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Luật Cán bộ, công chức quy định, cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ; có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ; gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; cán bộ, công chức, viên chức không được hách dịch, cửa quyền, không gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ. Bảo đảm các yếu tố trên, cùng với việc sử dụng hợp lý các nguồn lực sẽ nâng cao tính hiệu quả của hoạt động hành chính. Đó cũng là mục tiêu mà bất kỳ một nền công vụ của quốc gia nào cũng hướng tới trong quá trình phát triển.Yêu cầu xây dựng văn hóa công vụ trong bối cảnh mớiTrong suốt các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò quan trọng của văn hóa, coi đó là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Việc chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, văn hóa trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể được Đảng ta xác định là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, trong đó trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, có trách nhiệm với nhân dân và xã hội. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, việc xây dựng, thực thi và nâng cao văn hóa công vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nền hành chính nhà nước được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương; là hệ thống trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và bảo đảm cho đường lối, chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống; là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; trực tiếp xử lý công việc hằng ngày, thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với nhân dân; thực hiện quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội theo quy định của pháp luật; xử lý các tình huống, diễn biến phát sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Chính vì vậy, xây dựng văn hóa công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước sẽ góp phần tạo ra môi trường văn hóa để mỗi cán bộ, công chức, viên chức không ngừng học tập, rèn luyện, xứng đáng là những “công bộc” của dân, tôn trọng, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân; qua đó xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa cơ quan hành chính nhà nước với nhân dân, tạo nên nét đẹp văn hóa của một nền hành chính văn minh, hiện đại, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.Thực tế cho thấy, kể từ khi Chính phủ ban hành Quy chế Văn hóa công sở trong các cơ quan hành chính nhà nước năm 2007, việc xây dựng, hình thành văn hóa công sở đã có nhiều tác động tích cực, không ngừng gia tăng giá trị văn hóa trong hoạt động công vụ ở các cơ quan công quyền, thúc đẩy sự phát triển của nền hành chính công vụ.Công tác tuyên truyền và quán triệt nội dung về việc thực hiện văn hóa công sở đến mỗi cán bộ, công chức, viên chức được đẩy mạnh trên cả nước, đưa việc thực hiện văn hóa công sở trở thành một trong những tiêu chí thi đua gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại cơ quan, đơn vị. Nhiều địa phương có nhiều cách làm hay, mô hình hiệu quả trong việc gắn kết thực hiện văn hóa công sở với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Đẩy mạnh việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và phong trào thi đua yêu nước của các cơ quan, đơn vị. Công tác thực hiện cải cách hành chính đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận, các điều tra về hiệu quả thực hiện cải cách hành chính cũng như sự hài lòng của người dân vào cải cách hành chính đã thu được những kết quả tốt. Nhiều đơn vị, cơ quan hành chính trên toàn quốc đã nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình phục vụ nhân dân; giao tiếp với nhân dân có thái độ nhã nhặn, lịch sự hơn; lắng nghe nhân dân trình bày nguyện vọng, ý kiến; giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể hơn về các quy định liên quan đến giải quyết công việc, đáp ứng những yêu cầu chính đáng của nhân dân. Ngoài ra, một số cơ quan, đơn vị còn đặt các hòm thư góp ý tại nơi làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phản ánh về thái độ giao tiếp, phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức để người đứng đầu cơ quan, đơn vị kịp thời phát hiện chấn chỉnh và xử lý cá nhân sai phạm, nâng cao chất lượng công việc và mức độ hài lòng của người dân về thái độ phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức.Bên cạnh đó, việc thực hiện văn hóa công sở cũng đã đạt được kết quả khá tốt trên các mặt, như trang phục của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ bảo đảm gọn gàng, lịch sự; khuôn viên các công sở, phòng làm việc của cơ quan được bài trí khoa học, hợp lý, có biển chỉ dẫn, sơ đồ phòng làm việc để thuận tiện cho tổ chức và cá nhân khi liên hệ công tác…Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế vẫn còn những hạn chế nhất định trong quá trình thực hiện văn hóa công sở ở nhiều địa phương. Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010 chỉ rõ, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều điểm thiếu và yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới. Tình trạng cán bộ, công chức, viên chức đi làm muộn, trang phục không phù hợp khi đến công sở, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm trong công việc được giao vẫn còn diễn ra ở một số nơi. Tinh thần tự quản, tự giác của một số công chức, viên chức còn thấp, tính ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm trong công tác, thiếu nhiệt tình, nhiệt huyết trong công việc. Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân vẫn còn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, làm giảm niềm tin của nhân dân với cơ quan nhà nước, giảm hiệu quả công việc, cản trở sự phát triển...Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ, tại Quyết định số 1847/QĐ-TTg, ngày 27-12-2018. Đề án đã xác định mục tiêu nâng cao văn hóa công vụ, góp phần hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, xã hội. Đề án Văn hóa công vụ chỉ ra những nội dung cơ bản của văn hóa công vụ, về tinh thần, thái độ làm việc, chuẩn mực giao tiếp, ứng xử, chuẩn mực về đạo đức, lối sống, trang phục của cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời đưa ra các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện.Ngày 14-6-2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 733/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở” giai đoạn 2019 - 2025, nhằm nâng cao đạo đức công vụ, nói không với tiêu cực, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực công tác để gắn bó với nhân dân hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn. Qua đó, khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, đẩy lùi tiêu cực, nhũng nhiễu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng hoàn thiện về phẩm chất, có tác phong chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới.Một số giải pháp xây dựng văn hóa công vụ trong bối cảnh mới hiện nayThứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung của văn hóa công vụ nhằm nâng cao nhận thức, tạo chuyển biến mạnh mẽ cho cán bộ, công chức, viên chức về tinh thần, thái độ làm việc, các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử, đạo đức, lối sống, nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có kỷ cương, trách nhiệm, tận tụy, chuyên nghiệp.Thứ hai, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện quy định về văn hóa công vụ trong Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghiên cứu, sửa đổi các quy định, nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức nhằm tạo cơ sở pháp lý ngăn ngừa một cách bài bản những vi phạm về văn hóa công vụ. Tham mưu, đề xuất sáng kiến, nỗ lực cải cách hành chính, xây dựng tác phong, lề lối công tác, rèn luyện đạo đức công vụ, góp phần xây dựng một nền hành chính phục vụ, xây dựng Chính phủ kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.Thứ ba, đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23- 9-2019, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tích cực thực hiện Đề án văn hóa công vụ. Đẩy mạnh các phong trào thi đua Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở; nhân rộng các mô hình tiêu biểu và cách làm hay trong thực thi công vụ và xây dựng văn hóa công vụ; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức, viên chức giao lưu, chia sẻ những giải pháp, cách làm hiệu quả trong triển khai nhiệm vụ.Thứ tư, triển khai đồng bộ các quy định về văn hóa công vụ trong tất cả các ngành và lĩnh vực, các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong hoạt động nội bộ của các cơ quan, tổ chức, hướng tới nâng cao năng suất lao động, giảm hội họp, giấy tờ hành chính và chế độ báo cáo, tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Cung cấp thông tin, dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, trên diện rộng cho người dân và doanh nghiệp; niêm yết đầy đủ các thủ tục hành chính tại trụ sở nhằm làm cho hoạt động của cơ quan, tổ chức được minh bạch hơn, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện văn hóa công vụ theo chương trình, kế hoạch hằng năm và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, công chức, viên chức có thành tích, gương mẫu trong thực hiện văn hóa công vụ.Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp cho cán bộ, công chức, viên chức; đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có uy tín, có chuyên môn giỏi, thông thạo nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, luôn gần dân, biết lắng nghe, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong hoạt động cơ quan, tạo sự đoàn kết, thống nhất, phát huy cao độ nguồn lực, sức mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tích cực thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.Theo NGỌC HẢI/Tạp chí Cộng sản



- Xã Bình Lục
- Xã Bình Mỹ
- Xã Bình An
- Xã Bình Giang
- Xã Bình Sơn
- Xã Liêm Hà
- Tân Thanh
- Xã Thanh Bình
- Xã Thanh Lâm
- Xã Thanh Liêm
- Xã Lý Nhân
- Xã Nam Xang
- Xã Bắc Lý
- Xã Vĩnh Trụ
- Xã Trần Thương
- Xã Nhân Hà
- Xã Nam Lý
- Xã Nam Trực
- Xã Nam Minh
- Xã Nam Đồng
- Xã Nam Ninh
- Xã Nam Hồng
- Xã Minh Tân
- Xã Hiển Khánh
- Xã Vụ Bản
- Xã Liên Minh
- Xã Ý Yên
- Xã Yên Đồng
- Xã Yên Cường
- Xã Vạn Thắng
- Xã Vũ Dương
- Xã Tân Minh
- Xã Phong Doanh
- Xã Cổ Lễ
- Xã Ninh Giang
- Xã Cát Thành
- Xã Trực Ninh
- Xã Quang Hưng
- Xã Minh Thái
- Xã Ninh Cường
- Xã Xuân Trường
- Xã Xuân Hưng
- Xã Xuân Giang
- Xã Xuân Hồng
- Xã Hải Hậu
- Xã Hải Anh
- Xã Hải Tiến
- Xã Hải Hưng
- Xã Hải An
- Xã Hải Quang
- Xã Hải Xuân
- Xã Giao Minh
- Xã Giao Hòa
- Xã Giao Thủy
- Xã Giao Phúc
- Xã Giao Hưng
- Xã Giao Bình
- Xã Giao Ninh
- Xã Đồng Thịnh
- Xã Nghĩa Hưng
- Xã Nghĩa Sơn
- Xã Hồng Phong
- Xã Quỹ Nhất
- Xã Nghĩa Lâm
- Xã Rạng Đông
- Xã Gia Viễn
- Xã Đại Hoàng
- Xã Gia Hưng
- Xã Gia Phong
- Xã Gia Vân
- Xã Gia Trấn
- Xã Nho Quan
- Xã Gia Lâm
- Xã Gia Tường
- Xã Phú Sơn
- Xã Cúc Phương
- Xã Phú Long
- Xã Thanh Sơn
- Xã Quỳnh Lưu
- Xã Yên Khánh
- Xã Khánh Nhạc
- Xã Khánh Thiện
- Xã Khánh Hội
- Xã Khánh Trung
- Xã Yên Mô
- Xã Yên Từ
- Xã Yên Mạc
- Xã Đồng Thái
- Xã Chất Bình
- Xã Kim Sơn
- Xã Quang Thiện
- Xã Phát Diệm
- Xã Lai Thành
- Xã Định Hóa
- Xã Bình Minh
- Xã Kim Đông
- Xã Kim Đông
- Phường Duy Tiên
- Phường Duy Tân
- Phường Đồng Văn
- Phường Duy Hà
- Phường Tiên Sơn
- Phường Lê Hồ
- Phường Nguyễn Úy
- Phường Lý Thường Kiệt
- Phường Kim Thanh
- Phường Tam Chúc
- Phường Kim Bảng
- Phường Hà Nam
- Phường Phù Vân
- Phường Châu Sơn
- Phường Phủ Lý
- Phường Liêm Tuyền
- Phường Nam Định
- Phường Thiên Trường
- Phường Đông A
- Phường Vị Khê
- Phường Thành Nam
- Phường Trường Thi
- Phường Hồng Quang
- Phường Mỹ Lộc
- Phường Tây Hoa Lư
- Phường Hoa Lư
- Phường Nam Hoa Lư
- Phường Đông Hoa Lư
- Phường Tam Điệp
- Phường Yên Sơn
- Phường Trung Sơn
- Yên Thắng
- Xã Hải Thịnh