UBND phường Thành Nam làm việc với các trường Mầm non, Tiểu học, THCS trên địa bàn phường

Ngày 20/8/2025, đồng chí Trần Huy Thành - Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND phường Thành Nam chủ trì cùng lãnh đạo UBND phường, lãnh đạo các phòng chuyên môn đến thăm và làm việc với các trường mầm non, tiểu học, THCS trên địa bàn phường.Đồng chí Chủ tịch UBND phường cùng các đồng chí trong Đoàn công tác đã khảo sát tình hình thực tế cơ sở vật chất, công tác chuẩn bị cho năm học mới của các nhà trường; nghe báo cáo tình hình hoạt động, đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc cũng như những đề xuất, kiến nghị của các nhà trường để hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo trong thời gian tới.Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Chủ tịch UBND phường đã ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của các nhà trường trong công tác dạy và học, biểu dương thành tích các nhà trường đã đạt được trong thời gian qua. Đồng chí cũng mong muốn các nhà trường trong thời gian tới tiếp tục khắc phục mọi khó khăn, phát huy tinh thần trách nhiệm, không ngừng nỗ lực vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2025-2026 cũng như các chỉ tiêu về giáo dục đào tạo mà Đại hội Đảng bộ phường Thành Nam lần thứ I đã đề ra.Với những khó khăn, vướng mắc của các nhà trường, đồng chí Chủ tịch UBND phường đã chỉ đạo các phòng chuyên môn cùng với các trường tập trung triển khai một số nhiệm vụ sau:Một là, tập trung rà soát cơ sở vật chất; kịp thời sửa chữa những công trình, trang thiết bị đã cũ; bổ sung những hạng mục còn thiếu trên tinh thần ưu tiên cho các phòng học, phòng chức năng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu công tác dạy và học.Hai là, xây dựng phương án đảm bảo đủ nhân lực triển khai nhiệm vụ của nhà trường trong năm học; hạn chế đến mức cao nhất tình trạng thiếu cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên tại các nhà trường.Ba là, tăng cường phối hợp với địa phương, cha mẹ học sinh để triển khai có hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.Bốn là, tăng cường công tác đảm bảo an ninh. an toàn trường học; chuyển đổi số; xây dựng trường học Xanh - Sạch - Đẹp - An toàn.Năm là, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục; có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh chưa đạt; triển khai các hoạt động giáo dục toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng, đạo đức… cho học sinh.

Kỳ họp thứ nhất, HĐND tỉnh Ninh Bình khoá XV, nhiệm kỳ 2021-2026

Ảnh: Quang cảnh kỳ họpDự khai mạc Kỳ họp có các đồng chí: Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; Đinh Thị Lụa, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Mai Văn Tuất, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; các đồng chí Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ; Thường trực HĐND tỉnh; lãnh đạo UBND tỉnh; lãnh đạo Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh; các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh; lãnh đạo Văn phòng Tỉnh uỷ, Văn phòng UBND tỉnh cùng các vị đại biểu HĐND tỉnh.Ảnh: Đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu khai mạc kỳ họpPhát biểu khai mạc Kỳ họp, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh: Nhìn lại chiều dài lịch sử dân tộc, ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình là những địa phương có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng, có đặc điểm tương đồng và gắn bó mật thiết về địa lý, kinh tế, xã hội. Trong suốt hơn một thế kỷ qua, ba tỉnh đã nhiều lần được chia tách, hợp nhất để phù hợp với yêu cầu phát triển từng thời kỳ. Đến nay, trước yêu cầu cấp thiết về tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền, tạo nền tảng vững chắc để đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình được hợp nhất. Đây là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc lịch sử mới trong tiến trình phát triển của vùng đất địa linh nhân kiệt trung tâm Đồng bằng sông Hồng.Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Quốc Chỉnh cho biết, để chính quyền địa phương sau hợp nhất được vận hành ổn định, thông suốt theo chỉ đạo của Trung ương và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, tại kỳ họp này, HĐND tỉnh sẽ xem xét, cho ý kiến và quyết nghị những nội dung quan trọng liên quan đến nhân sự, cơ cấu bộ máy của HĐND tỉnh; Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; kế hoạch tổ chức kỳ họp thường lệ năm 2025 của HĐND tỉnh…Sau phát biểu khai mạc, Kỳ họp nghe thông báo về số lượng và danh sách đại biểu HĐND tỉnh sau sắp xếp, nhiệm kỳ 2021-2026. Theo đó, số lượng đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình sau sắp xếp, nhiệm kỳ 2021-2026 có 128 đại biểu, trong đó: Số lượng đại biểu HĐND tỉnh Nam Định trước sắp xếp: 44 đại biểu; số lượng đại biểu HĐND tỉnh Hà Nam trước sắp xếp: 41 đại biểu; số lượng đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình trước sắp xếp: 43 đại biểu.Kỳ họp đã nghe thông báo Nghị quyết số 1726/NQ-UBTVQH15 ngày 24/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình. Theo đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ định đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy giữ chức vụ Chủ tịch HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Chỉ định các đồng chí: Bùi Hoàng Hà, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Đặng Thanh Sơn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Lê Xuân Huy, Tỉnh ủy viên; Hoàng Văn Kiên, Tỉnh ủy viên; Mai Thanh Long, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Chỉ định các đồng chí: Vũ Thị Kim, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Pháp chế; Nguyễn Thị Nhung, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách; Phạm Anh Tuấn, Tỉnh ủy viên giữ chức vụ Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2025.HĐND tỉnh cũng đã nghe thông báo Nghị quyết của Thường trực HĐND tỉnh về việc Phê chuẩn số lượng thành viên Ban và danh sách Phó Trưởng ban, Ủy viên các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026, chỉ định Ủy viên UBND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026. Theo đó, Ban Kinh tế - Ngân sách gồm 23 đại biểu; Ban Pháp chế gồm 20 đại biểu; Ban Văn hóa - Xã hội 18 đại biểu; Ủy viên UBND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026 gồm 15 đồng chí.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tặng hoa chúc mừng các đồng chí lãnh đạo HĐND tỉnh, Trưởng các Ban HĐND tỉnh.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tặng hoa chúc mừng lãnh đạo UBND tỉnh và các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026.Tại Kỳ họp, đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh đã tặng hoa chúc mừng các đồng chí lãnh đạo HĐND tỉnh, Trưởng các Ban HĐND tỉnh; lãnh đạo UBND tỉnh và các đồng chí Uỷ viên UBND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026.Ảnh: Đồng chí Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh phát biểu chỉ đạo tại kỳ họpPhát biểu chỉ đạo tại kỳ họp, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh khẳng định: Việc hợp nhất ba tỉnh giàu truyền thống văn hóa, lịch sử và tiềm năng phát triển - Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình - không chỉ là bước đi mạnh mẽ trong cải cách và tổ chức bộ máy nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, các kết luận, chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ mà còn là cơ hội chiến lược để mở rộng không gian phát triển toàn diện, bổ sung cho nhau, khắc phục được những hạn chế, qua đó tạo cơ hội, sức mạnh để bứt phá, tăng tốc phát triển, xây dựng tỉnh Ninh Bình mới là một trong những trung tâm phát triển năng động, hiện đại, bền vững của vùng Đồng bằng sông Hồng. Đồng chí nhấn mạnh: Việc tổ chức mô hình chính quyền địa phương hai cấp đòi hỏi sự đổi mới tư duy, hành động quyết liệt, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là HĐND tỉnh - cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là nơi hội tụ trí tuệ, bản lĩnh, khát vọng phát triển, là trung tâm đoàn kết và quyết sách mọi lợi ích lâu dài của Nhân dân.Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đề nghị HĐND tỉnh cần đặc biệt tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm: Nỗ lực, quyết liệt hơn nữa nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong các quyết sách; phát huy vai trò giám sát, nhất là đối với các lĩnh vực đầu tư công, đất đai, tài nguyên, cải cách hành chính để đảm bảo phát triển năng động và hiệu quả. Phát huy trí tuệ trong việc ban hành kịp thời các cơ chế, chính sách mang tính đột phá tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong các lĩnh vực then chốt như du lịch, dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Ưu tiên phát triển đồng bộ hạ tầng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa - lịch sử đặc sắc của quê hương Ninh Bình.Bên cạnh đó, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh cũng gợi mở một số vấn đề để UBND tỉnh, các cơ quan tham mưu, giúp việc UBND tỉnh sớm tham mưu xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển. Trong đó, trước mắt cần bắt tay ngay vào công tác quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là đầu tư tuyến đường kết nối 3 thành phố trước đây (Nam Định, Hoa Lư, Phủ Lý) và một số dự án trọng điểm phát triển hạ tầng giao thông; đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghiệp, kết nối hạ tầng các khu công nghiệp với các tuyến đường quốc gia; thu hút các nhà đầu tư quốc tế... Nghiên cứu, đề xuất các chính sách thu hút nguồn nhân lực. Tập trung khai thác tiềm năng thế mạnh văn hoá, lịch sử của quê hương để phát triển du lịch sinh thái, du lịch biển, du lịch văn hoá, du lịch vui chơi, giải trí… Đồng thời cần rà soát lại toàn bộ các cơ chế, chính sách liên quan đến giải phóng mặt bằng, tái định cư, an sinh xã hội của 3 tỉnh trước đây để tham mưu điều chỉnh thống nhất, phù hợp.Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tin tưởng với tiềm năng, lợi thế từ vị trí địa lý chiến lược, bề dày truyền thống văn hóa - lịch sử - cách mạng, cùng hệ thống chính trị đồng bộ, đoàn kết; với tinh thần đổi mới, đoàn kết, dân chủ và trách nhiệm cao, HĐND tỉnh Ninh Bình sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng đưa quê hương Ninh Bình bước vào giai đoạn phát triển nhanh, bền vững với tầm nhìn chiến lược và khát vọng vươn lên mạnh mẽ.Thay mặt Thường trực HĐND tỉnh, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu những ý kiến chỉ đạo quan trọng, sâu sắc, toàn diện và tâm huyết của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh. HĐND tỉnh sẽ phát huy tốt vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống chính trị, đồng hành cùng UBND tỉnh, chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành, quản lý, giữ vững kỷ cương, góp phần đưa tỉnh Ninh Bình phát triển vững vàng, xứng đáng với tiềm năng, vị thế và niềm tin của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân trong tỉnh.Tiếp đó, HĐND tỉnh đã nghe Tờ trình về việc đề nghị thành lập các Ban của HĐND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026; Tờ trình về thành lập Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Ninh Bình, nhiệm kỳ 2021-2026; Tờ trình về kế hoạch tổ chức kỳ họp thường lệ năm 2025 của HĐND tỉnh; Tờ trình thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; Báo cáo thẩm tra của Ban Pháp chế HĐND tỉnh.Với tinh thần dân chủ, đồng thuận cao, HĐND tỉnh đã biểu quyết thông qua 04 dự thảo nghị quyết.Phát biểu bế mạc Kỳ họp, đồng chí Lê Quốc Chỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh khẳng định: Sau thời gian làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, đoàn kết và trách nhiệm, Kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh Ninh Bình khoá XV, nhiệm kỳ 2021 - 2026 đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra. Đây là Kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định nhiều nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy, tạo cơ sở để chính quyền địa phương vận hành ổn định, hiệu quả trong thời gian tới. Tại Kỳ họp, HĐND tỉnh nhất trí cao và biểu quyết thông qua 04 Nghị quyết. Trong đó có 03 Nghị quyết về tổ chức và nhân sự, là cơ sở để kiện toàn tổ chức bộ máy, bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành liên tục, hiệu lực, hiệu quả ngay từ những ngày đầu của chính quyền địa phương cấp tỉnh sau hợp nhất.Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân trong tỉnh, đồng chí đề nghị: Trong quá trình hoạt động, các cấp, các ngành cần bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như các mục tiêu, định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trọng tâm là tập trung vào bốn đột phá lớn theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị về: Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; về phát triển kinh tế tư nhân.Trên cơ sở các Nghị quyết đã được Kỳ họp thông qua, Thường trực HĐND tỉnh, UBND tỉnh và các sở, ngành, địa phương cần khẩn trương tổ chức thực hiện, ổn định tổ chức, kiện toàn bộ máy hành chính theo đúng quy định; chú trọng xây dựng quy chế hoạt động; bảo đảm hoạt động của chính quyền các cấp đồng bộ, thông suốt, hiệu quả, không bị gián đoạn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện mới, với phương châm “Vận hành thông suốt - hiệu lực - hiệu quả từ tỉnh đến cơ sở”.Đồng chí cũng đề nghị UBND tỉnh sớm xây dựng và ban hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn mới, xây dựng quy hoạch tỉnh bảo đảm xứng tầm với quy mô và vị thế của tỉnh sau hợp nhất, thể hiện rõ tư duy đổi mới, định hướng chiến lược dài hạn, lấy phát triển bền vững, nâng cao chất lượng đời sống Nhân dân làm mục tiêu xuyên suốt; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh vùng trung tâm Đồng bằng sông Hồng…Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu và từng đại biểu HĐND tỉnh cần tiếp tục phát huy vai trò, chủ động, tích cực tham gia xây dựng chính sách, quyết định những định hướng lớn, thực hiện tốt chức năng giám sát để bảo đảm các nghị quyết của HĐND tỉnh được triển khai hiệu quả, đi vào thực tiễn đời sống; đồng thời giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cử tri, từ đó củng cố niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội.Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tăng cường phối hợp chặt chẽ với HĐND tỉnh, UBND tỉnh và các cơ quan, đơn vị có liên quan phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, huy động sức mạnh tổng hợp để cùng chính quyền thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh khẳng định: Việc hợp nhất tỉnh không chỉ là sự sắp xếp lại địa giới hành chính, mà còn là một bước đi chiến lược nhằm tạo lập thế và lực mới cho sự phát triển lớn mạnh, bền vững và hội nhập sâu rộng trong thời đại mới. Tỉnh Ninh Bình hôm nay là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, ý chí đổi mới và khát vọng phát triển. Tin tưởng rằng, với truyền thống lịch sử hào hùng, tinh thần đổi mới sáng tạo và quyết tâm chính trị cao, tỉnh Ninh Bình sau hợp nhất sẽ sớm ổn định tổ chức, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo bứt phá trong phát triển, cùng cả nước bước vào “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc”.Nguồn: https://dbqh.hdnd.ninhbinh.gov.vn/

Công khai tiến độ của tỉnh Ninh Bình

Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương và ý nghĩa đối với Công cuộc sắp xếp tổ chức bộ máy của Chính quyền địa phương hiện nay

            Sinh thời, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và kiện toàn chính quyền địa phương phù hợp với điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Sự vững mạnh của chính quyền địa phương trong mỗi giai đoạn lịch sử góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của các cuộc cách mạng, khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay đang được soi đường bởi chỉ dẫn toàn diện và sâu sắc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.           Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương           Một là, xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành của chính quyền địa phương.           Xây dựng Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với tổ chức chính quyền địa phương, bước đi đầu tiên có ý nghĩa nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh đạo xác lập nền tảng pháp lý và xác định thành tố cấu thành. Hiến pháp năm 1946 với Chương 5 “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính” là văn bản luật sớm nhất được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng, ban hành. Kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung cụm từ địa phương các cấp và dành Chương 7 đề cập đến “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp”. Đã có sự bổ sung cụm từ “địa phương các cấp” vào tên của chương. Hiến pháp năm 1959, điều 78, nêu rõ: “Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định”. Điều 79 của Hiến pháp năm 1959 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”.           Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức chính quyền địa phương. Chương 1 quy định: Các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Các huyện có ủy ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có ban hành chính khu phố. Các thành phố có thể chia thành khu phố có hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Như vậy, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương bao gồm hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân (có lúc gọi là ủy ban hành chính) ở các cấp phân định hành chính địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.          Hội đồng nhân dân là cơ quan cấu thành tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở Việt Nam. Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 quy định hội đồng nhân dân cấp xã có từ 15 - 25 hội viên chính thức và từ 5 - 7 hội viên dự khuyết. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 20 - 30 hội viên chính thức và 5 hội viên dự khuyết. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được tính theo dân số thông qua nghị định của Bộ Nội vụ. Ngày 23/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 10/SL, điều chỉnh một số quy định: ở mỗi tỉnh sẽ đặt một hội đồng nhân dân bao gồm có từ 20 đến 30 hội viên chính thức và một số hội viên dự khuyết ngang số đơn vị tuyển cử (tức là mỗi đơn cử có một hội viên dự khuyết); đơn vị tuyển cử sẽ là huyện và thị xã. Số hội viên chia cho mỗi huyện và mỗi thị xã sẽ do nghị định của ủy ban hành chính kỳ ấn định.           Ủy ban nhân dân (cách gọi khác là ủy ban hành chính) là cơ quan chấp hành, do hội đồng nhân dân bầu ra; chấp hành nghị quyết, chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958: “Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem “Ủy ban nhân dân (xã, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương”(1). Sắc lệnh số 63/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22/11/1945 quy định cách tổ chức ủy ban hành chính gồm có cấp xã, huyện, tỉnh, kỳ. Trong bài viết “Cách tổ chức các ủy ban nhân dân”(2), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Ủy ban có từ 5 đến 7 người phải cử ra một chủ tịch, đứng đầu ủy ban, có nhiệm vụ đốc suất, củ soát các ủy viên khác, liên lạc với các cấp bộ trên và các tổ chức trong địa phương, chiêu tập và điều khiển các cuộc họp; một phó chủ tịch, giúp đỡ và thay chủ tịch khi anh này bận hay đi vắng; một thư ký giữ sổ sách, làm biên bản trong các cuộc hội họp; các ủy viên phụ trách chính trị, kinh tế tài chính, quân sự, xã hội. Chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký có thể kiêm phụ trách hoặc kinh tế, tài chính, hoặc tuyên truyền huấn luyện, hoặc quân sự, hoặc xã hội. Họp chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký thành ban thường vụ để chỉ huy công tác hằng ngày. Những ủy viên phụ trách, nếu cần, có thể lấy một số người ngoài ủy ban lập ra các tiểu ban tuyên truyền huấn luyện, tiểu ban tư pháp, tiểu ban quân sự, v.v. Trong các tiểu ban đó, ủy viên phụ trách sẽ làm trưởng ban. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất chi tiết “cách tổ chức của ủy ban nhân dân”. Với cách tổ chức đó, “Ủy ban nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”(3).           Hai là, xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.           Có 4 nguyên tắc nổi bật được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh khi xác lập nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương:           Nguyên tắc dân chủ: Với quan điểm chính quyền từ xã đến Trung ương do dân tổ chức ra, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dân chủ đối với hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương - nơi hằng ngày trực tiếp phụng sự nhân dân. Trong mối quan hệ với nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân vừa là người đại biểu, đại diện thực thi quyền lực được trao cho, vừa là người “đầy tớ” chăm lo, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân “chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương”. Trong mối quan hệ với Nhân dân địa phương, Ủy ban nhân dân vừa là người quản lý, vừa là người “đầy tớ”. Vị trí người quản lý thể hiện trong chức năng, quyền hạn của ủy ban nhân dân được quy định bởi pháp luật. Vị trí người “đầy tớ” thể hiện qua mục tiêu tồn tại và hoạt động của Ủy ban nhân dân hướng đến phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền kiểm soát và bãi miễn của nhân dân khi chính quyền nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng không xứng đáng với sự ủy quyền.           Nguyên tắc tập trung dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan Nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện trong tổ chức Nhà nước của ta”(4). Người chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành chính địa phương và Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(5). Nguyên tắc tập trung dân chủ xác lập chế độ làm việc của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân của chính quyền địa phương.           Nguyên tắc pháp quyền: Được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trên hai khía cạnh chính trong hoạt động của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Trước hết là xác lập nền tảng pháp lý để trên đó kiến tạo ra tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương. Điều này thể hiện rõ trong chương quy định về chính quyền địa phương của Hiến pháp các năm 1946, 1959 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tạo lập và vận hành của các thành tố trong chính quyền địa phương. Trên nền tảng nguyên tắc pháp quyền, chính quyền địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ để ban hành và thực thi quyết sách nhằm bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật ở địa phương.           Nguyên tắc Đảng lãnh đạo: Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng được xác lập là nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy tại địa phương trong xây dựng ủy ban nhân dân cùng cấp. Người cũng nhắc nhở cấp ủy không được xem nhẹ vai trò của chính quyền, không được “lấn sân” ôm đồm làm thay chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về lãnh đạo các đồng chí có cố gắng, có thành tích nhưng không toàn diện, được việc này nhẹ việc khác... Khuyết điểm nữa là chưa phát huy được tác dụng của chính quyền, Trung ương thường nhắc là phải kinh qua chính quyền mà thực hiện chính sách của Đảng, nhưng các cấp ủy thường coi nhẹ vai trò chính quyền, việc gì cũng bí thư, cũng Đảng ôm đồm làm cả, làm cho chủ tịch ủy ban hành chính trở nên kém tác dụng. Như thế là không đúng, không đúng tức là khuyết điểm cần phải sửa chữa”(6).           Ba là, tổ chức chính quyền địa phương đa dạng trong thống nhất.           Một trong những điểm nổi bật của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 là sự đa dạng trong thống nhất. Tính thống nhất thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động; ở sự thống nhất chấp hành của chính quyền địa phương với trung ương trong thực thi quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung”(7). Hội đồng nhân dân là một bộ phận cấu thành của cơ quan quyền lực nhà nước thống nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người chỉ rõ: “Hiến pháp năm 1946 đã thành lập “Nghị viện nhân dân” và “Hội đồng nhân dân” các cấp. Quốc hội là Hội đồng nhân dân toàn quốc. Ở địa phương thì có Hội đồng nhân dân địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu. Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân quyết định những công việc quan trọng nhất ở địa phương”(8).          Tính đa dạng của tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương thể hiện ở sự khác nhau trong quy định thành tố cấu thành tổ chức bộ máy chính quyền giữa các cấp địa phương và các địa bàn. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo xây dựng và ban hành nêu rõ: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do hội đồng các xã bầu ra. Với quy định này của Hiến pháp năm 1946 thì cấp bộ và cấp huyện không tổ chức hội đồng nhân dân.           Trong thiết kế hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 quy định nhiệm kỳ hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh là 3 năm; nhiệm kỳ hội đồng nhân dân các cấp khác là 2 năm. Hội đồng nhân dân khu tự trị và tỉnh họp 6 tháng một lần; hội đồng nhân dân thành phố và châu họp 3 tháng một lần. Hội đồng nhân dân thị xã, xã, thị trấn họp ít nhất 3 tháng một lần. Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân cùng cấp nên sự đa dạng của hội đồng nhân dân dẫn đến sự đa dạng trong nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân.           Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cho thấy không có sự giống nhau hoàn toàn giữa các cấp ủy ban hành chính địa phương về cơ cấu ủy viên, nhân sự lãnh đạo và cơ chế tổ chức. Cấp xã và cấp kỳ có 5 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; cấp huyện và cấp tỉnh có 3 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ủy ban hành chính xã do hội đồng nhân dân xã bầu ra; ủy ban hành chính cấp huyện do hội viên hội đồng nhân dân các xã trong huyện bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân huyện bầu ra); ủy ban hành chính cấp tỉnh do hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra; ủy ban hành chính cấp kỳ do hội viên hội đồng nhân dân các tỉnh trong kỳ bầu ra (không phải do hội đồng nhân dân kỳ bầu ra).           Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cũng có sự đa dạng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 cho phép tùy nhu cầu công tác của mỗi cấp chính quyền địa phương và mỗi địa bàn mà ủy ban hành chính có thể lập ra các cơ quan chuyên môn: Ủy ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập ra các cơ quan chuyên môn. Ủy ban hành chính châu, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, thị xã có văn phòng và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn. Ủy ban hành chính xã, thị trấn có một hoặc nhiều thư ký giúp việc bộ phận thường trực của ủy ban và có thể, tùy nhu cầu công tác, lập một số bộ phận chuyên môn.          Sự đa dạng này phản ánh tính linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn, nhưng hiện hữu trong chỉnh thể thống nhất của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương với quy định hợp lý về mối quan hệ phân công, phối hợp giúp cho chính quyền địa phương vận hành thông suốt và hiệu quả kể cả trong điều kiện chiến tranh, hạ tầng giao thông và kết nối còn nhiều khó khăn.           Bốn là, xây dựng đội ngũ nhân sự cho chính quyền địa phương.           Trong bài viết “Dân vận”, quan điểm “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”(9) đã thể hiện rõ một nguyên tắc nền tảng của việc tuyển chọn, bầu chọn cán bộ, công chức chính quyền địa phương: “do dân cử ra”.          “Quốc hội và Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đó là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và bảo đảm hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương với hội viên thật sự là người đại biểu của nhân dân. Số lượng hội viên hội đồng nhân dân được xác định theo số dân tại địa phương và được quy định bởi một nghị định của cơ quan có thẩm quyền. Mọi công dân từ 21 tuổi trở lên đều được ứng cử làm hội viên hội đồng nhân dân, trừ những thành phần luật không cho phép. Bầu cử hội viên hội đồng nhân dân là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị và nhân dân.          Đối với công chức làm việc ở cơ quan chuyên môn của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tuyển dụng theo quy định của Quy chế Công chức do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tại Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950. Quy chế nêu rõ: việc tuyển bổ công chức chỉ căn cứ vào năng lực (thành tích, kinh nghiệm, trình độ văn hóa) xét theo ba cách sau này: qua kỳ thi; theo học bạ hay văn bằng; theo đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Ngoài điều kiện năng lực, do quy tắc ấn định, những người muốn được tuyển vào một ngạch công chức phải có quốc tịch Việt Nam; đủ 18 tuổi. Đối với một vài ngạch đặc biệt, quy tắc có thể ấn định một hạn tuổi tối thiểu cao hơn; hạnh kiểm tốt; có quyền công dân; có đủ sức khỏe theo giấy chứng nhận của một y sĩ công. Đồng bào dân tộc thiểu số, cựu binh thương binh, quân nhân có chiến công sẽ được ưu đãi trong việc tuyển dụng.           Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng phòng, chống các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động của chính quyền địa phương. Năm 1948, trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn”, Người nhận định: “phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”(11). Năm 1952, trong “Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II”, Người cũng nhận định: “Cấp xã nhiều nơi còn xộc xệch lắm”(12). Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ ra những căn bệnh, biểu hiện tiêu cực và chỉ dẫn biện pháp để kiên quyết khắc phục.           Ý nghĩa và vận dụng trong xây dựng tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương hiện nay           Hiện nay, yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải “khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”. Với phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng”, việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương gắn liền với sắp xếp các cấp hành chính đang được tiến hành khẩn trương, chắc chắn. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đổi mới có tầm vóc cách mạng này là tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.           Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị diễn ra với khối lượng công việc lớn với nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra đòi hỏi khẩn trương nhận thức và có đối sách giải quyết đúng đắn để bảo đảm đạt được mục tiêu tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, trực tiếp là gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đã khẳng định bài học: Trước mỗi khó khăn, thử thách đặt ra, tư tưởng Hồ Chí Minh là cẩm nang thần kỳ mang lại chỉ dẫn phương pháp luận đúng đắn để nhận thức, giải quyết và vượt qua.           Tính đa dạng và thống nhất trong tổ chức chính quyền địa phương phản ánh qua quan điểm và thực tiễn lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy cần có tư duy đổi mới trên nền tảng bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn. Trong điều kiện kháng chiến với nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền địa phương không hoàn toàn đồng nhất mà có điểm khác nhau phản ánh tính đặc thù của mỗi cấp địa phương và mỗi địa bàn. Hơn hai thập niên đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần lãnh đạo việc điều chỉnh, sắp xếp chính quyền địa phương với sự thay đổi cả về cấp hành chính lẫn cơ cấu nhân sự và đơn vị trực thuộc. Việc kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp kỳ và thiết kế lại tổ chức chính quyền địa phương ngay trong điều kiện đất nước vừa kháng chiến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với rất nhiều khó khăn đã thể hiện tinh thần quyết tâm đổi mới trên nền tảng “dĩ công vi thượng”. Sự đổi mới này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của một giai đoạn cách mạng và quay trở lại phục vụ, thúc đẩy giai đoạn cách mạng ấy. Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Mỗi giai đoạn cách mạng phải có bộ máy để thực thi đường lối, chính sách pháp luật, bảo đảm mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển. Đây là thời điểm vàng triển khai tinh gọn, sắp xếp bộ máy để đạt được các mục tiêu đề ra, trong đó có mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân(13). Việc kết thúc hoạt động của cấp hành chính kỳ với bộ máy chính quyền địa phương tương ứng và sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền địa phương các cấp còn lại dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng soi chiếu cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay, bao gồm cả việc kết thúc hoạt động của chính quyền cấp huyện, việc tổ chức, sắp xếp, điều chỉnh thiết kế chính quyền cấp tỉnh và cấp xã hiện nay.           Yêu cầu quan trọng của việc sắp xếp, điều chỉnh chính quyền địa phương hiện nay là hoàn thiện thể chế với quy định cụ thể về nguyên tắc, chế độ làm việc, bộ máy và nhân sự, mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với Trung ương. Quá trình lãnh đạo xây dựng chính quyền địa phương của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là quá trình xây dựng và ban hành 2 bản Hiến pháp, nhiều luật và sắc lệnh với quy định vừa mang tầm vĩ mô, vừa cụ thể chi tiết định hình nên khung thể chế cho sự vận hành phù hợp điều kiện, đặc điểm từng thời kỳ. Trong đó, quy định rất toàn diện, cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của các thành tố trong chính quyền địa phương. Quy định này vừa có tính “đóng”, vừa có tính “mở”, nghĩa là vừa ấn định cụ thể phải triệt để chấp hành, vừa “mở” cho chủ động phù hợp với điều kiện thực tế. Chính quyền địa phương phải phục tùng Trung ương, chính quyền địa phương cấp dưới phải phục tùng chính quyền địa phương cấp trên, đồng thời nhấn mạnh được quyền quyết định mọi việc “trong phạm vi địa phương và trong phạm vi luật lệ quy định” và “không được trái với chỉ thị của các cấp trên”. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng thể chế với sự phân định rất rõ chức năng, nhiệm vụ của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; phân định rõ cơ quan quyền lực nhà nước, ban hành nghị quyết với cơ quan chấp hành, thực thi. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng đề ra và thực hiện chủ trương: “Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”... Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện”(14).           Cán bộ, công chức, viên chức là nhân tố quan trọng của tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Do vậy, mọi hoạt động sắp xếp, xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đều liên quan mật thiết với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay chính là dịp để sàng lọc, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho tinh gọn và hiệu quả hơn; “gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh”(15). Đảng ta chủ trương: “Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội”(16). Xác định biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh, xây dựng khung tiêu chuẩn, bố trí cán bộ, đánh giá và sàng lọc cán bộ, sử dụng người có năng lực nổi trội - công việc “then chốt” của xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương trước đây và hiện nay - đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện trong nhiều năm xây dựng chính quyền cách mạng. Bước đi, cách làm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương cả “đầu vào” (thi tuyển nhiều môn và nghiêm túc) lẫn “đầu ra” (đánh giá cán bộ, nhân dân bãi miễn); đạo đức lẫn năng lực, phong cách, lối làm việc; tuyển chọn, huấn luyện, sử dụng, đánh giá cán bộ; xây dựng yếu tố tích cực lẫn kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; thu hút và sử dụng nhân tài;... để lại cho quá trình sắp xếp, sàng lọc cán bộ hiện nay chỉ dẫn nguyên vẹn giá trị.           Yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đòi hỏi khẩn trương thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với tính chất là nhiệm vụ chủ đạo, tiên quyết. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với việc tinh gọn tổ chức bộ máy này, tiết kiệm tiền chỉ là một phần thôi, quan trọng hơn cả là hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả bộ máy, đưa đất nước phát triển lên”(17). Toàn dân tộc đang đứng trước “thời cơ vàng” để thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ quá trình to lớn và khẩn trương đó phải thấm nhuần căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”(18). Chính vì vậy, Kết luận số 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngày 28/02/2025, “Về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị” đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Đối với cấp xã: Cần xác định rõ các mô hình chính quyền địa phương cấp xã đối với khu vực đô thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo, quy mô dân số, diện tích, lịch sử, văn hoá, các vấn đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, dân tộc, tôn giáo...”. PGS. TS. Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Nguồn: tapchicongsan.org.vn ----------------- (1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.12, 12-14. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.14. (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.379. (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.263-264. (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.75. (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.264. (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.374. (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460. (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.391. (13) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo Nhân Dân điện tử, ngày 13/02/2025, https://nhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-sap-xep-tinh-gon-bo-may-de-dat-muctieu-tang-truong-kinh-te-va-nang-cao-doi-song-nhan-dan-post859825.html.(14) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số 1050, tháng 11/2024, tr.15. (15), (16) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tlđd, tr.15. (17) Trích phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên thảo luận ở tổ về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 13/02/2025. Xem: Báo điện tử Chính phủ, ngày 13/02/2025, https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-day-la-thoi-co-vang-de-sap-xep-tinhgon-bo-may-102250213164125207.htm.(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.460.

Hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm Y tế học sinh, sinh viên năm học 2025-2026

1.  Đối tượng    Học sinh, sinh viên (HSSV) đang học từ cấp tiểu học trở lên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo các loại hình: công lập, dân lập, tư thục, giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, dạy nghề (trừ những HSSV đã được cấp thẻ BHYT theo nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước đóng 100% mức đóng hoặc hỗ trợ mức đóng cao hơn).2. Mức đóng, phương thức đóng, thời hạn sử dụng thẻ BHYT * Mức đóng- Mức đóng hàng tháng bằng 4,5% mức lương cơ sở tại thời điểm đóng, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ 50% mức quy định đóng, cá nhân HSSV đóng 50% mức đóng còn lại. Số tiền đóng BHYT của HSSV là: 4,5% x 2.340.000 đồng = 105.300 đồng/người/tháng, trong đó:+ Ngân sách nhà nước hỗ trợ: 50% x 105.300 đồng = 52.650 đồng/tháng;+ HSSV đóng: 50% x 105.300 đồng = 52.650 đồng/tháng.Tham gia BHYT đủ 12 tháng (01 năm) thì số tiền thuộc trách nhiệm đóng của HSSV là: 52.650 đồng x 12 tháng = 631.800 đồng/năm.* Phương thức đóng và thời hạn sử dụng thẻ BHYT - Học sinh lớp 1 sinh có ngày sinh trước 02/10/2019 khuyến khích tham gia 15 tháng x 52.650 đồng/tháng = 789.750 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/10/2025 đến 31/12/2026).  Trường hợp học sinh lớp 1, sinh từ ngày 02/10/2019, thì đóng BHYT kể từ tháng kế tiếp liền sau với tháng trẻ đủ 72 tháng tuổi (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày đầu của tháng liền sau tháng trẻ đủ 72 tháng tuổi đến ngày 31/12/2026).  Ví dụ: học sinh lớp 1, sinh từ ngày 02/10/2019 đến ngày 01/11/2019, đóng 14 tháng x 52.650 đồng/tháng = 737.100 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/11/2025 đến 31/12/2026). Tương tự, nếu sinh từ ngày 02/11/2019 đến ngày 01/12/2019, thì số tháng đóng là 13 tháng, sinh sau ngày 01/12/2019 số tháng đóng là 12 tháng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/01/2026 đến 31/12/2026).- Đối với học sinh lớp 12, mức đóng: 52.650 đồng/tháng x 9 tháng = 473.850 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng thẻ từ 01/01/2026 đến 30/9/2026). Khuyến khích học sinh lớp 12 đóng BHYT đến hết ngày 31/12/2026.- Học sinh, sinh viên năm thứ nhất của khóa học đóng BHYT từ tháng đầu nhập học đến ngày 31/12/2026.  Ví dụ: Nhập học ngày 01/10/2025, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng x 15 tháng = 789.750 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ ngày 01/10/2025 đến 31/12/2026). Trường hợp trước đó (học lớp 12) thẻ BHYT còn thời hạn sử dụng đến 31/12/2025, thì đóng BHYT từ tháng liền sau với tháng thẻ BHYT hết thời hạn sử dụng.  Ví dụ: Sinh viên năm thứ nhất, nhập học từ ngày 01/10/2025, thẻ BHYT năm học lớp 12 còn thời hạn sử dụng đến ngày 31/12/2025, thì đóng BHYT 12 tháng, bằng: 52.650 đồng/tháng x 12 tháng = 631.800 đồng (tương ứng với thời hạn sử dụng từ 01/01/2026 đến 31/12/2026).- Sinh viên năm cuối của khóa học, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng nhân với số tháng tương ứng, tính từ 01/01/2026 đến ngày cuối của tháng kết thúc khóa học (thẻ BHYT có thời hạn sử dụng từ ngày 01/01/2026 đến ngày cuối của tháng kết thúc khóa học).   Ví dụ: Kết thúc khóa học ngày 31/5/2025, mức đóng bằng: 52.650 đồng/tháng x 5 tháng = 263.250 đồng (tính từ ngày 01/01/2026 đến 31/5/2026).   Các cơ sở giáo dục căn cứ vào ngày cuối cùng của tháng kết thúc khóa học để thu tiền BHYT tương ứng với số tháng. Khuyến khích học sinh, sinh viên năm cuối của khóa học đóng BHYT đến hết ngày 31/12/2026.- Học sinh, sinh viên thuộc diện còn lại: mức đóng 52.650 đồng/tháng x12 tháng = 631.800 đồng (tương ứng thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ 01/01/2026 đến 31/12/2026).  Lưu ý: Trường hợp HSSV lần đầu tiên tham gia BHYT hoặc đã tham gia BHYT theo một trong các đối tượng quy định tại Điều 12, Luật BHYT nhưng không liên tục từ 90 ngày trở lên thì thẻ BHYT có giá trị sử dụng sau 30 ngày kể từ ngày đóng đủ BHYT.3. Thời hạn thu BHYT HSSV    Đối với học sinh lớp 01; sinh viên năm thứ nhất và HSSV chưa tham gia: Hoàn thành thu tiền và lập danh sách (Mẫu D03-TS, gửi kèm) chuyển về cơ quan BHXH trước ngày 30/9/2025 để cập nhật gia hạn thẻ BHYT.    Học sinh, sinh viên thuộc diện còn lại hoàn thành trước ngày 10/12/2025.4. Kinh phí khám, chữa bệnh (KCB) trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) và mức hỗ trợ thu BHYT HSSV- Về điều kiện, mức chi, nội dung chi, thanh quyết toán kinh phí KCB trong công tác CSSKBĐ thực hiện theo quy định tại Điều 62, Điều 63 Nghị định số 188/2025/NĐ-CP của Chính phủ. BHXH cơ sở, Phòng Quản lý thu và phát triển người tham gia chịu trách nhiệm trong việc hướng dẫn về điều kiện, mức chi KCB CSSKBD đối với từng cơ sở giáo dục, trường học theo phân cấp quản lý thu.- Kinh phí hỗ trợ tổ chức thu, phát hành thẻ BHYT HSSV tính theo tỷ lệ (%) trên tổng số tiền thực thu BHYT do HSSV đóng để chi hỗ trợ cho những người thực hiện công tác thu, phát thẻ BHYT tại đơn vị. Tỷ lệ thù lao thực hiện theo quy định của BHXH Việt Nam.

Tin bão khẩn cấp sáng ngày 25.8.2025

(Cơn bão số 5): Theo dự báo mới nhất của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia: Hồi 7 giờ ngày 25-8, vị trí tâm bão ở vào khoảng 18.4 độ Vĩ Bắc; 107.2 độ Kinh Đông, cách Nghệ An khoảng 160km về phía Đông Đông Nam, cách Hà Tĩnh khoảng 145km về phía Đông, cách Bắc Quảng Trị khoảng 155km về phía Đông Đông Bắc. Sức gió mạnh nhất: Cấp 14 (150-166km/ giờ), giật cấp 17. Dự báo: Trong 3 giờ tới, bão di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, tốc độ khoảng 15-20km/h.Xem chi tiết tại đây:https://nbtv.vn/phuong-an-ung-pho-khi-bao-so-5-cach-ha... 

  • Đang truy cập23
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại13,630
  • Tổng lượt truy cập1,309,041

Quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06

Ngày 08/8/2025, đồng chí Trưởng Ban Chỉ đạo phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06 phường Thành Nam đã ký ban hành Quyết định số 03/QĐ-BCĐ về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo.Quy chế gồm 4 chương, 12 điều quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ họp, cơ chế phối hợp và điều kiện bảo đảm hoạt động của Ban Chỉ đạo, các Tổ công tác và cơ quan thường trực.Quy chế cũng phân định rõ trách nhiệm của Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, thành viên Ban Chỉ đạo, nhiệm vụ của các Tổ công tác cùng quyền hạn của cơ quan thường trực.Việc ban hành Quy chế hoạt động là cơ sở quan trọng để Ban Chỉ đạo phường Thành Nam triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ về chuyển đổi số, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cải cách hành chính, thực hiện thắng lợi các mục tiêu các chương trình, kế hoạch trọng tâm của phường trong giai đoạn mới.